Thánh ngôn

CHỈ CHÚ TRỌNG PHẬT TÁNH

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao - Đại sư Ấn Quang - Như Hòa dịch

25/03/2017

Tâm tánh của chúng sinh không khác gì chư Phật, nhưng do mê chưa ngộ mà làm chúng sinh lâu dài.

Phẩm Như Lai Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm có câu: “Lạ thay ! Lạ thay! Hết thảy chúng sinh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai, nhưng do vọng tưởng chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng chấp trước thì Nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô ngại trí đều được hiện tiền”.

Phải biết trí tuệ đức tướng và vọng tưởng chấp trước chỉ trong một tâm. Thoạt đầu vốn không phải là hai. Hễ mê thì toàn thể trí tuệ đức tướng biến thành vọng tưởng chấp trước. Ngộ thì toàn thể vọng tưởng chấp trước lại biến thành trí tuệ đức tướng. Ví như nước kết thành băng, băng tan thành nước. Tướng tuy có khác biệt, thể vốn không hai. Hiểu rõ điều này thì ai chẳng nguyện đoạn hoặc nghiệp huyễn vọng, khôi phục tâm tánh sẵn có. Các việc như đề cao thánh cảnh, cam phận phàm ngu, chấp tánh bỏ tu, dùng kiến giải lầm lạc lấy phàm lạm thánh v.v… do đâu mà sinh khởi được?

Kinh thư nói: “Thánh mất niệm nên thành cuồng. Cuồng khắc chế được ý niệm thì thành thánh”.

Mạnh tử nói: “Ai cũng có thể là Nghiêu Thuấn. Đạo của Nghiêu Thuấn chỉ là hiếu để mà thôi”.

Do vậy mà biết nếu chẳng thể hành hiếu đễ để làm Nghiêu Thuấn, chẳng khắc chế ý niệm để thành thánh, chẳng thể khôi phục trí tuệ đức tướng để thành Phật thì đều là hạng tự ruồng rẫy, tự vứt bỏ, chẳng chịu gắng sức thực hiện vậy.

Như Lai lúc mới thành chánh giác, vì khắp hết thảy phàm thánh, nói kinh Phạm Võng Bồ-tát Giới. Trong đó có câu: “Các ông là Phật sẽ thành. Ta là Phật đã thành. Thường tin tưởng như thế thì giới phẩm đã đầy đủ”. Lại nói: “Chúng sinh nhận lãnh giới của Phật, chính là đã dự vào địa vị chư Phật. Địa vị giống như Đại giác. Thật sự là con của chư Phật vậy”. Điều chính yếu là muốn làm cho con người hiểu thấu suốt “một niệm tâm tánh nhỏ nhoi” đó chính là cội gốc của Đạo Bồ đề, do chính Như Lai đã chứng vậy. Đã biết như thế thì ai còn chịu thuận theo nhiễm duyên phiền não khiến cho bầu trời chân tánh thanh tịnh rốt ráo bị mây mê sương hoặc ngăn lấp nữa ư?

Lại khéo léo khuyên dụ dần dần để hàng hạ căn trước thọ Tam qui Ngũ giới, đem thân tâm qui y Tam bảo. Tự có thể phản vọng qui chân, bối trần hợp giác, rồi dạy cho ngũ giới “chẳng sát sinh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu” thì những lời lẻ hành vi thường ngày sẽ không phạm tội lỗi, thân tâm thanh tịnh.

Với những người phát tâm đại Bồ-đề thì lại dạy họ tiến lên thọ Bồ-tát đại giới, khiến cho lý sự viên dung, phước huệ cùng tiến, hầu trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh.

Kinh đô là chỗ đầu não của thiên hạ, vì thế tội phạm trong nhà từ rất đông. Lại do thói đời ngày càng suy bại, chiến tranh mất mùa liên tiếp, đến nỗi bọn lưu manh ngây ngô phạm phải phép nước bị giam cầm trong ngục. Há phải đâu chỉ trói buộc làm khổ thân tâm họ, mà thật là muốn cho họ sửa lỗi đổi mới, trở thành lương dân tuân theo luật pháp.

Lại do gần đây Phật học xương minh, chánh phủ đặc biệt mời những vị cao tăng thông đạt Phật pháp thường đến trại giam khai thị những ý nghĩa trọng yếu của Phật pháp và cái nhân gây ra sinh tử luân hồi, cũng như pháp liễu sinh thoát tử, ngõ hầu ai nấy đều biết tâm này là tâm Phật, ắt ễsẽ tự tuân hành hạnh Phật. Muốn liễu sinh thoát tử mà chẳng tín nguyện, niệm Phật cầu sinh Tây phương quyết khó được như nguyện.

Bọn họ nghe vậy như đối trước gương sáng, xấu tốt tự biết, như gặp mẹ hiền, mừng vui không gì ví dụ được. Tiếng kinh, danh hiệu Phật sáng tối không gián đoạn, biến nhà ngục thành đạo tràng, khiến bạn tù thành pháp lữ. Quả thật là chuyện lạ từ xưa đến nay chưa từng nghe. Đủ chứng tỏ Phật pháp quả thật là lò nung lớn để nung phàm đúc thánh vậy. Bất luận vàng cứng sắt chai đến đâu, hễ bỏ vào trong ấy đều đúc thành tượng Phật, tượng Bồ-tát vi diệu trang nghiêm.

Những ai bảo Phật pháp vô ích cho quốc gia, có hại cho đời, đều là những kẻ chưa thấy màu sắc đã bàn luận mù quáng, khiến mình tự lầm, làm người khác lầm theo.

Viên quan giám mục, do phát đại tâm, bèn đặc biệt thỉnh vị pháp sư có đức, vào ngày Nguyên đán năm Giáp tý, nói Tam quy Ngũ giới cho khắp tất cả Phật tử trong nhà giam, ngõ hầu dùng Quy Giới chế phục thân tâm, khiến cho vọng tưởng chấp trước không hề còn nữa, trí tuệ đức tướng sẽ được triệt để phô bày trọn vẹn. Hàng Phật tử các ông, lúc đầu đã phạm quốc pháp đến nỗi bị cầm tù. Kế, do nghe được Phật pháp liền nhiễm Phật hương, trở thành pháp khí của Phật. Là do nhân duyên ác trở thành nhân duyên thiện. Nếu chẳng phải đã trồng thiện căn từ nhiều kiếp, vạn phần chẳng thể may mắn như thế này đâu.

Ví như bảo châu Ma-ni, có thể thỏa ý người, mưa khắp các món báu, do không hay biết nên quăng trong hầm xí, chẳng những không có công năng mưa ra các báu mà thể chất còn chẳng khác gì những vật nhơ. May gặp được người trí biết là của báu, vào nhà xí lượm ra, gột rửa đủ cách, lại dùng hương xông để khôi phục lại tính chất sẵn có. Sau đó treo trên tràng cao, châu lại phóng quang minh, tùy ý người cần, mưa ra khắp các báu.

Phật thấy hết thảy chúng sinh cũng như vậy. Do đó dẫu kẻ mê đến cùng cực, làm đủ mọi chuyện ác nghịch như vua Ca Lợi cắt chặt thân thể hoàn toàn không có một niệm buông bỏ, mà vẫn thường tìm cơ hội để chỉ dạy, khen ngợi, khiến cho họ được độ thoát. Ấy là vì Phật chỉ xem trọng Phật tánh, còn hết thảy tội cấu ác nghịch, ngài chẳng buồn xét đến.

Nếu các ông hiểu được những điều vừa nói trên đây, dù là pháp hay ví dụ, ắt sẽ tự chẳng cô phụ Phật giáo hóa, chẳng phụ bạc tánh linh của chính mình. Chỉ mong ai nấy nổ lực tấn tu thì may mắn lắm thay!