Thập Thiện lược giải
THẬP THIỆN LƯỢC GIẢI (P.3)
Thập thiện hạnh với Lục độ, Tứ vô lượng tâm, Tư nhiếp pháp, Tứ niệm xứ v.v...
01/04/2017THẮNG HẠNH CỦA THẬP THIỆN HẠNH
Phần này nói về thắng hạnh của 10 thiện nghiệp. Kinh này được giảng cho cả hàng Tì kheo và đại Bồ tát, là những vị không lấy phước báu Trời Người làm chỗ dừng trụ, nên Phật dạy thêm 10 thiện nghiệp kèm với Lục độ, Tứ nhiếp pháp v.v… 10 thiện hạnh khi được thực hành cùng với các hạnh khác như thế, sẽ sinh ra những quả báo thù thắng hơn nữa, nên nói thắng hạnh của Thập thiện hạnh .
LỤC ĐỘ VÀ THẬP THIỆN HẠNH
Nói rộng về Bố thí độ
CHÁNH VĂN
Lúc ấy Thế Tôn lại nói với Long vương rằng: Nếu có Bồ tát y nơi thiện nghiệp này, trong lúc tu đạo, có thể lìa sát hại mà hành bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, trường thọ không yểu, không bị tất cả các oán tặc làm hại.
Nếu lìa việc không cho cố lấy mà hành bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, tối thắng không ai bằng, đều có thể tích tập đầy đủ pháp tạng của chư Phật.
Nếu lìa tà hạnh mà hành bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, trong nhà trinh thuận, mẹ và vợ con không vì lòng dục mà bị xâm phạm.
Nếu lìa nói dối mà hành bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, lìa các hủy báng, nhiếp trì chánh pháp như lời thệ nguyện, việc làm nhất định có kết quả.
Nếu lìa lời ly gián mà hành bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, quyến thuộc hòa thuận, đồng một chí thích, hằng không tranh trái.
Nếu lìa lời thô ác mà hành bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, tất cả chúng hội hoan hỉ qui y, lời nói đều được người tin nhận không chống trái.
Nếu lìa lời nói thêu dệt mà hành bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, lời nói không hư cuống, người đều kính chịu, hay khéo phương tiện đoạn các nghi hoặc.
Nếu lìa tâm tham cầu mà hành bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, những gì có được đều mang ban cấp, tin hiểu kiên cố, đầy đủ uy lực lớn.
Nếu lìa tâm sân giận mà hành bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, chóng tự thành tựu tâm trí vô ngại, các căn nghiêm hảo, người thấy đều kính yêu.
Nếu lìa tâm tà đảo mà hành bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, thường sinh vào nhà kính tin chánh kiến, thấy Phật, nghe Pháp, cúng dường chúng Tăng, thường không quên mất tâm đại bồ đề.
Đó là những bậc Đại sĩ khi tu Bồ tát đạo, hành 10 thiện nghiệp, do bố thí trang nghiêm mà được đại lợi ích.
GIẢI THÍCH
Phần này Phật dạy cho những ai thực hành hạnh nguyện Bồ tát, nên mở đầu có câu Nếu có Bồ tát y nơi thiện nghiệp này, trong lúc tu đạo, có thể … và chấm dứt bằng câu Đó là những bậc Đại sĩ khi tu Bồ tát đạo.
Bồ tát nói đây chỉ cho hàng xuất gia lẫn tại gia, nên có câu Nếu lìa tà hạnh mà bố thí thì thường được giàu có, tài bảo không ai xâm đoạt, trong nhà trinh thuận, mẹ và vợ con không vì lòng dục mà bị xâm phạm. Vì vậy dù là tại gia nếu đã phát tâm bồ đề tu Bồ tát đạo thì đều phải y đây mà tu hành, lấy đó trang nghiêm Phật độ của mình.
Khi hành BỐ THÍ mà còn hành 10 thiện, thì chúng ta sẽ được những quả báo Phật dạy trên. Trong các câu, đều có một câu giàu sang, đó là cái quả của việc bố thí. Tùy theo thập hạnh riêng mà có thêm cái quả tốt đẹp của hạnh đó. Hạnh nào chưa giữ được thì không được những quả báo đó.
- Nếu thấy mình được giàu sang, nhưng thân quyến của mình không hòa thuận, làm việc vì cũng nghịch ý nhau, hay tranh cải v.v… thì cần coi lại cái miệng của mình. Coi mình có hay nói lời ly gián không? Nếu thấy có, thì sám hối những lỗi đã phạm và nhất quyết không gây tạo lỗi mới. Có vậy thì nghiệp cũ mới chuyển, tương lai những quả báo như thế mới không xảy ra.
- Nếu thấy mình được giàu sang, nhưng thân thường có bệnh hoặc trong gia đạo có người thân chết yểu hoặc gặp nhiều kẻ nhiễu loạn làm mình phiền não thì thường là mình vướng vào tâm sát.
Tâm sát có nhiều dạng:
. Với người, thì có ác tâm muốn hủy diệt, đàn áp, nguyền rủa chỉ vì lòng hơn thua, không hẳn phải đợi giết người mới có tâm sát.
. Với sinh vật thì giết hại.
. Với vật vô tình thì muốn chặt chém, phá tán.
Thấy có các điều trên thì cần tỉnh biết buông bỏ khi nó hiện khởi và hạn chế việc sát hại sinh vật. Có vậy, mới thọ hưởng được sự giàu sang đầy đủ, phước ở đời mới tròn. Không thì tuy giàu sang nhưng yểu mạng, đau ốm và gặp nhiều việc oán hận, không tốt cho hiện đời và những kiếp sau.
Nói lược về 5 độ sau
CHÁNH VĂN
Như vậy này Long Vương ! Tóm lại, hành thập thiện đạo, nhờ Giới trang nghiêm nên hay sinh tất cả nghĩa Phật pháp lợi ích, đầy đủ đại nguyện. Nhờ Nhẫn nhục trang nghiêm nên được viên âm của Phật, đầy đủ các tướng hảo. Nhờ Tinh tấn trang nghiêm nên hay phá ma oán, vào Phật pháp tạng. Nhờ Định trang nghiêm nên hay sinh niệm, tuệ, tàm, quí, khinh an. Nhờ Tuệ trang nghiêm nên hay đoạn tất cả vọng kiến phân biệt.
GIẢI THÍCH
Năm độ sau là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Hành Thập thiện mà còn tu thêm các hạnh đó thì sẽ được các quả báo nêu trên. Nói cách khác, muốn có được các quả báo đó, ta phải tu Thập thiện cộng với Lục độ. Như muốn có được thân tướng hảo và viên âm của Phật thì phải hành 10 thiện và tu thêm hạnh Nhẫn nhục.
Nhờ Giới trang nghiêm, là dùng Giới tô điểm cho bản thân, tức lấy việc giữ giới làm đẹp cho bản thân. Đó là một cái đẹp thuộc về đức hạnh. Nhờ đức hạnh đó, thân tướng toát ra sự đức độ, uy nghi v.v… khiến người người quí kính.
Ma oán, chỉ cho tất cả các ma như thiên ma, ma nghiệp v.v… Tất cả không ra ngoài ngũ ấm ma.
Phật pháp tạng, thô là chỉ cho biển giáo pháp của Phật. Tế, chỉ cho biển pháp tánh chân như.
Dù có tu Thập thiện và tu các độ mà không tinh tấn thì cũng không tới đâu, nên Tinh tấn được xem là một độ trong lục độ. Có tinh tấn hành Thập thiện và năm độ còn lại, mới có thể phá ma oán, vào Phật pháp tạng.
Viên âm, chỉ cho tiếng nói của Phật. Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Tịnh Nhãn nói: “Diệu âm vang khắp tất cả thế giới không thể cùng tận giống như hư không”. Cũng nói kệ: “Phật dùng nhất âm diễn nói pháp. Chúng sinh tùy loài mà được hiểu” .
Tổ Hiền Thủ giải thích:
Diệu âm vang khắp là nói viên âm của Như Lai theo tánh duyên khởi trùm khắp mà không hoại từng thuyên biểu riêng. Nếu bình đẳng trùm khắp mà mất âm khúc thì viên mà không âm. Nếu có âm khúc mà trái với trùm khắp thì âm mà không viên. Nay không hoại âm khúc mà bình đẳng trùm khắp, bất động trùm khắp mà vẫn có âm vận sai biệt, chính là viên âm của Như Lai. Đây không phải là cảnh giới suy lường của tâm thức.
Như hư không, vì có 5 nghĩa:
. Trùm khắp: Viên âm của Phật trùm khắp pháp giới không chỗ nào không đến.
. Bình đẳng: Tuy trùm khắp mà tánh thể hằng không hai.
. Vô ngại: Viên âm của Phật tùy căn cơ thuần hay chưa thuần mà nghe hay không nghe v.v… nhưng đều không có chướng ngại, như hư không.
. Đối hiện: Tùy căn cơ sai biệt mà người nghe thấy như có khác nhau, nhưng viên âm thì không có đây hay kia.
. Hàm chứa: Như hư không bao hàm các sắc pháp, viên âm của Phật hàm nhiếp tất cả nghĩa của các pháp.
Niệm, có niệm lực, niệm định v.v… Niệm định, là chánh niệm và chánh định. Niệm lực, là sức chuyên niệm có thể khán lại những lực chướng ngại bên ngoài.
Tàm quí, là biết hổ thẹn và sợ hãi đối với những lỗi mình đã phạm. Điều đó cũng có nghĩa là biết tôn trọng công đức và các thiện hạnh.
Nhờ Định mà có tàm quí, câu này rất quan trọng đối với việc hành thiền. Có người ‘bất động’ bằng cách mặc kệ luôn với những lời góp ý đúng, vẫn tiếp tục với những việc bất thiện của mình, và cho đó là mình đang thực hành pháp bất động. Bất động như thế là tà bất động. Vì sao? Vì trạng thái ‘bất động’ mà nhà thiền hay nói là cái quả của định tuệ bình đẳng. Có TUỆ thì phải nhận biết được việc gì là thiện nên làm, việc gì là bất thiện nên tránh. Có ĐỊNH, đây nói nhờ nó mà có tàm quí, thì phải có tâm hổ thẹn và chừa bỏ những gì thuộc bất thiện. Vì thế đối với lỗi đã phạm, chưa dứt bỏ được liền thì phải nguyện dứt bỏ cho bằng được. Có thể dùng câu này để phân biệt chánh định và tà định. Nếu đúng là định của Phật giáo thì phải luôn có tâm tàm quí đối với việc làm, lời nói và ý nghĩ bất thiện.
Khinh an, là trạng thái an lạc, nhẹ nhàng, rộng mở, thong dong.
Nhờ tu Thập thiện và định lực mà ta có được các hiện tượng trên.
Vọng kiến phân biệt, là cái thấy phân biệt hư dối. Chân thể thanh tịnh vốn vô tướng. Do vô minh bất giác mà hiện cái thấy hư vọng (chỉ cho cái thấy của chúng sinh hiện nay) cùng cảnh giới hư vọng (chỉ cho 5 trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc mà chúng sinh đang cảm nhận bằng các giác quan của mình), nên nói vọng kiến. Vọng kiến này lại bị vô minh chi phối, nên đối với cảnh giới hư vọng không biết nó hư vọng, lại khởi phân biệt ta người, đẹp xấu v.v… từ đó sinh ra yêu ghét, rồi tạo nghiệp, luân hồi trong lục đạo.
Nếu tin hiểu cảnh giới trước mắt không lìa tâm mà có, xấu, đẹp v.v… chỉ là những kiến chấp duyên khởi của vọng tâm, thì giữ tâm không thủ, không niệm … cho đến lâu xa, nhờ lực huân tập đó mà vô minh diệt. Do vô minh diệt nên tâm không khởi. Do tâm không khởi, cảnh giới diệt theo. Do nhân duyên đều diệt nên tướng của tâm đều hết. Đó là Nhờ Tuệ trang nghiêm nên hay đoạn tất cả vọng kiến phân biệt.
CÁC HẠNH KHÁC VÀ THẬP THIỆN
CHÁNH VĂN
Nhờ TỪ trang nghiêm, nên đối với chúng sinh chẳng khởi tâm não hại. Nhờ BI trang nghiêm nên thương chúng sinh thường chẳng chán bỏ. Nhờ HỶ trang nghiêm nên thấy người tu thiện tâm không tật đố. Nhờ XẢ trang nghiêm nên đối với cảnh thuận nghịch không có tâm thương giận.
GIẢI THÍCH
Bốn vô lượng tâm là từ, bi, hỉ, xả.
Luận Đại Trí Độ quyển I nói:[1]
Từ là thương tưởng chúng sinh, thường tìm việc vui thích và an ổn để lợi ích chúng sinh. Tu tâm từ để trừ giác tưởng sân hận đối với chúng sinh.
Bi, là thương tưởng đến chúng sinh phải chịu mọi sự thân khổ tâm khổ trong năm đường. Tu tâm bi để trừ giác tưởng não hại chúng sinh.
Hỷ, là muốn làm cho chúng sinh từ vui được hoan hỉ. Tu hỷ tâm là để trừ sự không vui vẻ đối với chúng sinh. Nghĩa là, đối với chúng sinh chưa vui thì khiến họ được vui, với chúng sinh vui rồi thì khiến họ càng thêm vui.
Thường, chư vị có hoàn cảnh đau khổ hay thấp kém hơn mình thì mình dễ thương cảm, nhưng với chư vị có hoàn cảnh ngang mình hay hơn mình, thì mình dễ khởi tâm đố kỵ, vì thế cần phải tu tâm hỷ để xả bỏ các tâm đó.
Xả, là xả bỏ ba thứ tâm trên, chỉ nghĩ đến chúng sinh mà không ghét không thương. Tu tâm xả để trừ sự yêu ghét với chúng sinh. Theo tính duyên khởi, một khi tâm đã khởi thương thì đủ duyên sẽ khởi ghét, thương ghét kèm nhau. Để không ghét thì phải xả luôn tâm thương. Ngoài ra, tu ba tâm trên là để đối trị các giác tưởng sân hận, não hại và đố kỵ. Các giác tưởng ấy hết thì pháp đối trị cũng phải buông, trả tâm về chỗ “Không sinh cũng không diệt, không một cũng không khác…”.
Vô lượng, vì không phải một phương mà trùm khắp mười phương. Từ, bi, hỉ, xả trải khắp chúng sinh ở mười phương, nên gọi là Tứ vô lượng tâm.
Tu Thập thiện hạnh cùng với Tứ vô lượng tâm thì sẽ được cái quả là bất động được với mọi loài chúng sinh dù là thuận hay nghịch với mình. Bất động nhưng không có tâm chán bỏ, cũng không có tâm não hại. Chỉ một mực cùng họ hướng về đạo vô thượng. Luận Đại Trí Độ nói: “Do chấp thủ tướng chúng sinh, nên tâm từ rơi vào hữu lậu. Nếu thủ tướng rồi, mà vào được thật tướng của các pháp thì tâm từ ấy thành vô lậu”. Cũng là tâm từ nhưng chỉ do mình có chấp thủ tướng hay không mà thành hữu lậu hay vô lậu.
CHÁNH VĂN
Nhờ TỨ NHIẾP trang nghiêm nên thường siêng năng nhiếp hóa tất cả chúng sinh.
GIẢI THÍCH
Tứ nhiếp, là bốn pháp mà Bồ tát dùng để nhiếp hóa chúng sinh. Đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
BỐ THÍ là việc dễ làm nhất để gieo duyên với chúng sinh. Đứng ở mặt nhân quả hiện tại, bố thí hay cúng dường cho ai bằng tấm lòng chân thật, quí kính đều dễ gây thiện cảm với người, nói người dễ nghe …
Bố thí có nhiều loại, bố thí tài vật, bố thí công sức, bố thí sự không sợ, bố thí pháp v.v…Nhờ lời nói của mình mà người khác nhận được sự giúp đỡ, khiến cuộc đời của họ thay đổi theo chiều hướng tốt cũng là một dạng bố thí, dù nó mang tính lợi hành nhiều hơn.
Bố thí là phương tiện dễ làm nhưng tác dụng của nó lại rất lớn, lại có thể gieo tạo duyên lành trong cả ba đời, nên nó là một trong bốn pháp mà Bồ tát phải có trên con đường hành đạo.
Bố thí lợi người mà cũng lợi cho chính mình. Vì bố thí với tâm lượng như thế cũng là đang phá đi những tâm niệm vị kỷ của chính mình.
ÁI NGỮ, với hàng căn cơ đã thuần thục thì ái ngữ hay thô ngữ đều là pháp giúp chúng ta tiến về đạo vô thượng. Nhưng với đa phần chúng sinh, thì lời nói dịu ngọt, nhẹ nhàng luôn có tác dụng hơn lời nói thô cứng. Người xưa nói: “Mật ngọt chết ruồi”. Vì thế ái ngữ là một trong bốn pháp dùng để nhiếp hóa người. Ái ngữ nói đây, là để giúp người sống đúng với chánh pháp, phát triển trí tuệ, tuy cũng lợi mình nhưng là ở mặt công đức, nó không mang tính ái ngữ như người đời, chỉ vì lợi lộc thế gian mà dùng ái ngữ.
LỢI HÀNH, là làm một việc gì đó mang lợi ích đến cho người, khiến người mến mộ qui phục. Nói lời thiện, làm việc thiện khiến người mến mộ theo về cũng là một dạng lợi hành, đây thuộc thân giáo.
ĐỒNG SỰ, là dùng những cái tương đồng với chúng sinh để giúp họ sống thiện và làm thiện, như đồng cảnh ngộ, đồng sở thích, đồng việc làm, đồng quan niệm v.v… Từ cái đồng ấy mà dẫn dắt họ về đạo vô thượng.
Ông xã tôi có một người bạn. Ông này là một phật tử. Phật tử thì giới thứ năm là không được uống rượu. Nhưng ông mở tiệm ăn và bán rượu. Lúc đầu thì chỉ thấy bán, sau thấy ngồi cùng bàn với mấy ông bạn nhậu. Ông xã tôi góp ý thì bảo có vậy mới dẫn họ vào đạo được, cách biệt quá không nên. Nghe cũng có lý, chắc đang thực hiện pháp đồng sự.
Một lần ông ấy nghe ông xã tôi cai trà vì thấy trong người không ổn, không có trà cứ như thiếu thuốc, nên phải bỏ. Ông ấy cười: “Ta uống rượu còn không say, mới uống trà chun chút đã say phải bỏ”. Ừ, dù chỉ là trà mà đã say hay nghiện thì phải bỏ. Bởi tu, đâu có gì khác là phá ‘tập’. Thứ gì có nguy cơ thành ‘tập’ đều phải bỏ.
Rượu cũng vậy, bản thân nó không lỗi, nhưng 5 giới của phật tử tại gia cấm, vì uống nó vào đầu óc mình không tỉnh, chưa kể uống hoài nó sẽ thành ‘tập’ của mình. Thành ‘tập’ rồi thì mình sẽ bị trói buộc trong thói quen đó. Sẽ dẫn đến nhiều tai hại cho bản thân, gia đình và xã hội. Điều này thực tế đã chứng minh.
Cách mấy bữa sau, tôi điện thoại xin gặp ông bạn có chút việc. Chị vợ nói: “Ông nhậu xỉn quá, ngủ quắc cần câu rồi”.
Muốn thực hiện pháp đồng sự để giúp bạn bè hữu duyên ‘viễn ly điên đảo mộng tưởng đạt đến cứu cánh Niết bàn’ thì nhậu gì nhậu mình cũng phải tỉnh, phải có lực tự tại của chính mình, không thì chẳng có được chút giáo pháp nào trong đầu để dẫn dắt người về đạo vô thượng. Bình thường đây, đọc kinh đọc luận còn chưa hiểu, nói gì lúc đầu óc mơ mơ màng màng đầy chất rượu nồng.
Cho nên đồng sự mà đồng ở những thói xấu, để dẫn người về đạo vô thượng, đòi hỏi mình phải có một định lực tối thiểu nào đó - đủ làm chủ những sinh khởi trong lòng khi tiếp duyên - thì hãy nên đồng sự. Không thì khoan cho chắc ăn. Bởi có định lực như thế thì sự tỉnh giác của mình mới không bị vọng tưởng gạt. Không thì thực hành đồng sự mà thật ra chỉ là bị cái đồng nghiệp nó lôi. Chỗ này không cẩn thận không được.
CHÁNH VĂN
Nhờ NIỆM XỨ trang nghiêm nên khéo tu tập Tứ niệm xứ quán.
GIẢI THÍCH
Niệm xứ, là Tứ niệm xứ nói trong các kinh nguyên thủy. Đó là Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường và quán pháp vô ngã. Mục đích của việc quán này là giúp xa lìa sự chấp thủ thân, thọ, tâm, pháp để thể nghiệm chân lý.
Đây là phần đầu tiên trong 37 phẩm trợ đạo. Các phần còn lại là Tứ chánh cần, Tứ như ý túc v.v… sẽ được nói lần lượt ở các phần kế sau.
Luận Đại Trí Độ có phần hỏi đáp như sau:
Hỏi : 37 phẩm trợ đạo là đạo của Thanh văn và Bích Chi Phật, Lục độ mới là đạo của đại Bồ tát, đây vì sao trong Bồ tát đạo còn nói đến pháp của Thanh văn?.
Đáp : Vì đại Bồ tát phải học tất cả thiện pháp, như Phật nói với Tu Bồ Đề: “Đại Bồ tát học Bát nhã ba la mật phải học tất cả thiện pháp, tất cả đạo”. Đó là từ Càn Huệ Địa cho đến Phật đạo. Chín địa ấy nên học mà không thủ chứng …
Lại nữa, chỗ nào nói 37 phẩm trợ đạo chỉ là pháp của Thanh văn và Bích Chi Phật chứ không phải của Bồ tát? Chính trong phẩm Đại thừa của kinh Bát Nhã Ba La Mật, Phật nói Tứ niệm xứ cho đến Bát thánh đạo là Đại thừa … Phật vì tâm đại từ mà nói 37 phẩm trợ đạo, chỉ tùy nhân duyên của chúng sinh mà chứng đạo ấy. Người muốn cầu Thanh văn thì nương đó mà chứng quả Thanh văn. Người muốn cầu Bích Chi Phật thì nương đó mà chứng Bích Chi Phật. Người cầu Phật đạo thì nương đó mà được Phật đạo...
Hỏi : Tuy không chỗ nào nói 37 phẩm trợ đạo là riêng của Thanh văn, nhưng lấy nghĩa mà suy thì các phẩm ấy chỉ nói đến pháp Niết bàn, không nói đến Ba la mật cũng không nói đến đại bi, trong khi Bồ tát lại ở lâu trong sinh tử, qua lại năm đường, không gấp lấy Niết bàn.
Đáp : Bồ tát tuy ở lâu trong sinh tử nhưng cũng phải biết thật đạo, phi đạo, pháp thế gian, pháp Niết bàn...
Lại nữa, Bồ tát ở lâu trong sinh tử, phải chịu các thứ khổ não nơi thân tâm, nếu không có thật trí làm sao nhẫn được với các việc ấy. Do vậy Bồ tát phải cầu thật trí về đạo phẩm ấy. Do sức Bát nhã ba la mật mà có thể chuyển thế gian thành đạo quả Niết bàn …[2] Vì không thủ tướng thì đó là Niết bàn.
Trong pháp của Thanh văn không nói ‘Thế gian tức Niết bàn’, vì trí tuệ chưa thâm nhập được các pháp ấy. Còn pháp của Bồ tát nói ‘Thế gian tức Niết bàn’, vì trí tuệ thâm nhập được các pháp ấy. Bồ tát chứng được thật tướng nên không chán thế gian, không vui Niết bàn.
Đoạn luận đó cho thấy pháp không có Tiểu Đại, Tiểu hay Đại là tùy căn cơ của từng người.
Pháp đặt ra, chỉ là tùy bệnh cho thuốc. Mình vướng vào bệnh nào thì cứ dùng thuốc hợp với bệnh ấy mà trị. Nếu là người có tinh thần Đại thừa thì biết thuốc chỉ để trị bệnh. Bệnh hết thì thuốc cũng bỏ, không chấp đây là pháp Tiểu thừa, đây là pháp Đại thừa. Bởi tất cả chỉ là phương tiện. Tu Đại thừa mà đụng đâu cũng chấp thì gốc chính là Tiểu thừa. Tu pháp Tiểu thừa mà tâm không chấp trụ các pháp thì gốc chính Đại thừa.
Tôi có quen một người, chị tu và học những thứ mà người ta gọi là Tiểu thừa, nhưng nói chị tu Tiểu thừa chị không chịu, chị không chịu chữ Tiểu, vì Tiểu là nhỏ. Pháp chị tu không thể nhỏ được. Lúc đầu tất cả kinh điển Đại thừa chị đều cho là ma pháp. Sau một thời gian dài, nhờ sự giáo hóa của một vị bên Nguyên Thủy, chị không còn cho kinh sách Đại thừa là ma pháp nữa, nhưng chị vẫn không chịu hai chữ Đại thừa. Chị nhét tất cả kinh sách Đại thừa vào trong hai chữ Tiểu thừa. Chỉ cần ai lên tiếng chút gì đó là về hai chữ Đại thừa, chị liền nổi xung thiên hùng hổ phản bác. Đó là một trạng thái chấp pháp. Cho nên, chư vị Tổ sư phân Tiểu hay Đại không căn cứ ở pháp mà ở việc chấp nhiều hay ít. Vì vậy đã học pháp Đại thừa thì phải có tinh thần phóng khoáng, không chấp Tiểu hay Đại, pháp nào trị đúng bệnh của mình giúp mình hết bệnh thì dùng, không phải bệnh của mình thì dù là pháp Đại Đại cũng không đụng đến. Hết bệnh rồi thì pháp phải buông.
Bản chất các pháp là không, chỉ tùy duyên mà hiển tướng. Tùy duyên thì hết duyên tướng cũng hết. Phật nói pháp bốn mươi chín năm, rốt cuộc nói ta không nói một chữ. Ta học pháp Phật cũng phải học tinh thần vô trụ vô chấp như thế.
37 phẩm trợ đạo này, nếu chúng ta tu Phật, học Bồ tát hạnh thì cũng phải y đây mà tu tập. Pháp nào phù hợp với căn lực của mình trong hiện đời, giúp mình trị được những tật bệnh của mình, giúp mình có định lực và trí tuệ v.v… thì mình đều nên tu học. Pháp nào, hiện đời ứng dụng vào mà thấy không phù hợp hoặc không đúng bệnh của mình, thì biết là không phải duyên, để đó tính sau. Luận Đại Trí Độ có ghi:
Hỏi : Pháp Tứ niệm xứ có thể giúp đắc đạo đầy đủ, sao còn phải nói đến 37 phẩm trợ đạo?
Đáp : Tứ niệm xứ, nhờ nó có thể đắc đạo, nhưng vẫn cần các pháp còn lại, vì tâm chúng sinh chủng loại không đồng, kiết sử nhiều thứ, sự ưa thích hiểu biết cũng nhiều thứ. Phật pháp tuy nhất chân nhất tướng nhưng vì chúng sinh mà có mười hai bộ kinh, phân biệt nói ra tám muôn bốn ngàn pháp tụ… Nếu không như thế, chỉ cần nói Tứ đế là đủ, không cần phải nói pháp khác … Như các bệnh không đồng mà thuốc thành có nhiều thứ, Phật cũng vậy, vì tâm bệnh của chúng sinh nhiều thứ nên Phật dùng nhiều thứ thuốc để trị.
Tu pháp của Phật thì cần phải lưu ý đến mặt tùy duyên này. Không nên cố chấp.
Pháp quán ‘Quán thân trên thân’ được ghi sau sẽ giúp chúng ta phát triển được định lực và trí tuệ rất tốt. Vì thế, dù ở thời nào đi nữa, pháp ấy cũng luôn cần thiết khi chúng ta mới tập hành thiền:
Thở vô dài, biết thở vô dài. Thở vô ngắn, biết thở vô ngắn … khi đi biết tôi đi, khi đứng biết tôi đứng. Thân thể được sử dụng thế nào vị ấy biết thân thể như thế ấy. Lại nữa, này các Tì kheo! Khi bước tới bước lui biết việc mình đang làm. Khi co tay duỗi tay biết việc mình đang làm. Khi mang bát, mang y biết rõ việc mình đang làm … Vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh…
Trong các phần sau, nếu thấy phần giải thích có khác với 37 phẩm trợ đạo được giải thích ở các luận khác, chỉ là vì đây giải thích sâu hơn mà thôi. Đó là 37 phẩm trợ đạo dành cho hàng Bồ tát tu Bát nhã ba la mật, đa phần được trích lọc từ luận Đại Trí Độ của Bồ tát Long Thọ.
CHÁNH VĂN
Nhờ CHÁNH CẦN trang nghiêm nên có thể đoạn trừ tất cả pháp bất thiện thành tất cả pháp thiện.
GIẢI THÍCH
Chánh cần là bốn việc cần phải siêng tu tập:
. Việc thiện chưa sinh, siêng làm nó phát sinh.
. Việc thiện đã sinh, năng làm nó tăng trưởng.
. Việc ác đã sinh, siêng đoạn trừ.
. Việc ác chưa sinh, năng không để phát sinh.
Vì bốn việc đó mà kinh nói Có thể đoạn trừ tất cả pháp bất thiện thành tất cả pháp thiện.
CHÁNH VĂN
Nhờ THẦN TÚC trang nghiêm nên thường khiến thân tâm khinh an vui thích.
GIẢI THÍCH
Thần túc, còn gọi là Tứ như ý túc.
Hành giả khi thực hành Tứ niệm xứ và Tứ chánh cần, được trí tuệ và chánh tinh tấn. Do tinh tấn nên tuệ tăng nhiều, định giảm yếu. Lúc ấy dùng bốn định thu nhiếp, khiến định tuệ bình đẳng, nhờ đó sở nguyện đều thành tựu như ý, nên gọi là Như ý túc. Phát ra các thần dụng, nên còn gọi là Thần túc.
1/ DỤC ĐỊNH đoạn hành thành tựu thần túc: Dục nói đây không phải là tham dục mà là ‘chí’ là ‘nguyện’ muốn lìa tất cả vọng tưởng điên đảo, muốn được tất cả các pháp môn thiền định, trí tuệ v.v… Nhờ chí nguyện đó làm phát sinh thiền định có thể đoạn được các hành, thành tựu các pháp lành, nên gọi là ‘Dục định’. Phật dạy “Tất cả pháp lành lấy dục làm gốc” là chỗ này. Thiện dục giúp phát sinh chánh cần, là phần Cần định sau.
Ý nghĩa của các phần sau, cứ theo đó mà hiểu.
2/ TÂM ĐỊNH đoạn hành thành tựu thần túc.
3/ CẦN ĐỊNH đoạn hành thành tựu thần túc.
4/ QUÁN ĐỊNH đoạn hành thành tựu thần túc.
Nhờ 4 định trên mà thành tựu Tứ thần túc.
CHÁNH VĂN
Nhờ NGŨ CĂN trang nghiêm nên thâm tín kiên cố, tinh cần không giải đãi, thường không mê vọng, tịch nhiên điều thuận, dứt các phiền não.
GIẢI THÍCH
Ngũ căn, là Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn và Tuệ căn. Thứ gì có khả năng sinh ra các thứ khác, gọi là căn. Niềm tin có thể làm phát sinh ra những thiện pháp khác, nên gọi là Tín căn.
Tin vào đạo và thiện pháp trợ đạo, là TÍN CĂN. Do tin mà hành, hành có kết quả thì niềm tin càng được củng cố, nên nói thâm tín kiên cố.
Nhờ tin mà thực hành pháp trợ đạo ấy siêng cầu không ngừng, đó là TINH TẤN CĂN. Tinh tấn thì không giải đãi, nên nói tinh cần không giải đãi.
Do tinh cần nên chỉ nhớ nghĩ đến đạo và pháp trợ đạo, là NIỆM CĂN.
Nhất tâm nhớ nghĩ không tán loạn, là ĐỊNH CĂN.
Quán hết thảy pháp là vô thường v.v… Với pháp thế gian thì không ưa, với pháp Niết bàn cũng không thích, được trí tuệ tự tại, ấy là TUỆ CĂN.
Nhờ niệm, định, tuệ mà thật tướng các pháp hiện rõ, tâm thường an nhiên tịch lặng, không còn phiền não, nên nói thường không mê vọng, tịch nhiên điều thuận, dứt các phiền não.
CHÁNH VĂN
Nhờ LỰC trang nghiêm nên các oán diệt hết, người không thể phá hoại.
GIẢI THÍCH
Ngũ căn tăng trưởng có thể ngăn chặn phiền não, có thể dần vào thâm pháp, gọi là ngũ lực. Nói cách khác, khi ngũ căn được hành trì thuần thục thì nó tạo ra ngũ lực giúp ta dứt đi phiền não và ngộ nhập thực tướng các pháp.
CHÁNH VĂN
Nhờ GIÁC CHI trang nghiêm nên thường khéo giác ngộ tất cả pháp.
GIẢI THÍCH
Giác chi là Thất giác chi. Bảy việc này có thể đưa đến sự giác ngộ chân thật của bậc vô học, nên gọi là giác chi. Vì muốn nhập Niết bàn vô vi nên thực hành các pháp này. Thất giác chi là:
1/ NIỆM GIÁC CHI: Đối với hết thảy pháp không nhớ không nghĩ, gọi là Niệm giác chi.
2/ TRẠCH PHÁP GIÁC CHI: Trong tất cả pháp tìm thiện pháp, bất thiện pháp, vô ký pháp không thể có, gọi là Trạch pháp giác chi.
3/ TINH TẤN GIÁC CHI: Phá đi sự trói buộc ở ba cõi, gọi là Tinh tấn giác chi.
4/ HỶ GIÁC CHI: Quán các pháp hữu vi là ‘không’, không chấp trước, trong thật trí sinh hỷ, đó là chân hỷ.
5/ TRỪ GIÁC CHI: Còn gọi là Khinh an giác chi. Được chân hỷ thì trước trừ được thân thô trọng, kế trừ được tâm thô trọng, sau mới trừ hết thảy pháp tướng, được sự khoái lạc biến khắp trong thân tâm, gọi là Trừ giác chi.
6/ ĐỊNH GIÁC CHI: Biết tướng của hết thảy pháp thường định, không tán loạn.
7/ XẢ GIÁC CHI: Không đắm trước, không y tựa các pháp, xả hết các hí luận, cũng không thấy tâm xả ấy, gọi là Xả giác chi.
Thất giác chi nói đây không chỉ hạn cuộc trong việc phá ngã mà soi thấu luôn thực tướng của các pháp, nên nói khéo giác ngộ tất cả pháp.
CHÁNH VĂN
Nhờ CHÁNH ĐẠO trang nghiêm nên được chánh trí tuệ thường hiện tiền.
GIẢI THÍCH
Bát chánh đạo là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Những suy nghĩ, lời nói và hành động nào tương ưng với lý Nhân quả, lý Duy tâm, cái quả của chúng mang tới an lạc, lợi ích cho mình và cho người trong hiện tại và tương lai, gọi là chánh.
CHÁNH KIẾN là có cái nhìn hoặc là quan niệm đúng đắn về cuộc đời này.
Thấy lý Nhân quả chi phối toàn bộ thế giới này là có chánh kiến.
Nhận ra bản chất của thế giới này ‘không phải có cũng không phải không’ là có chánh kiến.
Thấy được ‘Tâm sinh thì tất cả pháp sinh. Tâm diệt thì tất cả pháp diệt’ là có chánh kiến v.v...
CHÁNH TƯ DUY: Chánh kiến là nền tảng để ta có những suy nghĩ chân chánh. Những tư duy nào lấy chánh kiến làm nền tảng, đều gọi là chánh tư duy. Tùy mức độ tâm thức của từng người mà chánh tư duy có cạn hay sâu.
Luận Đại Trí Độ nói: «Bồ tát đối với các pháp không, không có sở đắc. Trú trong chánh kiến như vậy mà quán sát tướng của chánh tư duy, biết tất cả tư duy đều là tà tư duy. Cho đến tư duy Niết bàn, tư duy Phật đều cũng như vậy. Vì sao? Vì dứt hết thảy tư duy phân biệt, đó gọi là chánh tư duy».
‘Đối với các pháp không …’ là thấy các pháp tuy có hình tướng nhưng tướng ấy như mộng như huyễn, đều là biến hiện của tự tâm, tánh nó là không, không có gì để nắm bắt. Thấy được vậy gọi là có chánh kiến. Có chánh kiến như thế thì nhận ra rằng, chánh tư duy rốt ráo nhất chính là không tư duy, mọi tư duy đều là tà tư duy. Đó là chánh tư duy của hàng Bồ tát Đại thừa.
CHÁNH NGỮ: Là lời nói chân chánh. Lời nói chân chánh là lời nói không mang tính chia rẽ, xúc xiểm, nguyền rủa, không mang tính gian dối hay phát xuất từ sự sân hận v.v… Nói chung, những lời nói nào, dù êm ái ngọt dịu mà có khuynh hướng hại người hại vật, đều không phải là chánh ngữ.
Có một loại lời nói mà chúng ta dễ mắc phải, nhất là với những người ‘ăn nói có duyên’, là lời nói mang tính đùa cợt giúp vui mọi người. Trong cái duyên là không khí căng thẳng quá, thì một lời nói đùa khiến tình trạng căng thẳng qua đi là việc cần thiết, nhưng những lời nói đùa thường xuyên, với người tu thiền là cái quả của một tâm tán loạn. Bởi khi tâm tĩnh lặng, nói lời bình thường còn không muốn, huống là đùa cợt hí luận? Nếu không biết mà dừng, nó sẽ trở thành tập khí của mình.
Luận Đại Trí Độ nói: «Biết được thật tướng của ngôn ngữ chính là chánh ngôn ngữ. Biết hết thảy ngôn ngữ đều do phân biệt thủ tướng hư vọng điên đảo mà sinh ra, trong ngôn ngữ không có tướng ngôn ngữ, dứt hết thảy khẩu nghiệp, đó là Bồ tát thực hành chánh ngữ. Có nói năng gì đều trú trong thật tướng mà nói. Bồ tát trụ trong chánh ngữ thường khởi khẩu nghiệp thanh tịnh, biết chân tướng của hết thảy ngữ ngôn, tuy có nói mà không rơi vào tà ngữ».
CHÁNH NGHIỆP: Bồ tát biết nghiệp do nhân duyên sinh nên hết thảy đều không. Tuy biết các nghiệp đều không, nhưng với nghiệp ác không làm, nghiệp thiện lại tinh tấn phát huy. Tuy phát huy nhưng không đắm trước, không cầu phước báo Trời Người, mà đều hồi hướng cho Phật đạo của mình và người. Đó gọi là chánh nghiệp của Bồ tát.
CHÁNH MẠNG: Hết thảy phẩm vật giúp nuôi mạng sống đều chánh, không phải tà.
Có 5 thứ tà mạng cần biết:
1/ Vì lợi dưỡng của bản thân mà dối trá hiện tướng công đức.
2/ Vì lợi dưỡng cho bản thân mà tự nói tướng công đức của mình.
3/ Vì lợi dưỡng của bản thân mà xem tướng cát hung cho người.
4/ Vì lợi dưỡng của bản thân mà hiện tướng làm người khiếp sợ để qui thuận.
5/ Vì lợi dưỡng của bản thân mà khen ngợi công đức cúng dường để khích động lòng người.
Đó là 5 kiểu nuôi sống bản thân gọi là tà. Phần này nói cho hàng xuất gia, cũng cho hàng tại gia đã phát tâm bồ đề. Tuy nói 5 nhưng vào chi tiết thì nhiều hơn. Nói chung, vật phẩm lợi dưỡng nào nuôi sống bản thân mà phải do tác ý hay thủ đoạn mới có, đều là tà mạng.
Luận Đại Trí Độ nói: «Trụ trong trí không hí luận, không thủ chánh mạng, không xả tà mạng, cũng không ở trong chánh pháp, cũng không ở trong tà pháp mà thường ở trong trí thanh tịnh, thường nhập lý chánh mạng bình đẳng, không thấy mạng không thấy phi mạng, thực hành như thế gọi là chánh mạng». Như vậy, chánh mạng của hàng Bồ tát tâm đã thanh tịnh không y cứ vào vật phẩm bên ngoài để đánh giá, mà chỉ y cứ vào tâm vô phân biệt. Tâm nếu đạt được trạng thái vô phân biệt rồi thì vật phẩm nuôi dưỡng bản thân, dù bất tịnh dưới mắt người khác, cũng thành thanh tịnh.
Tóm lại, với tâm thanh tịnh vô phân biệt thì tất cả mọi hoạt dụng đều là diệu dụng, nhưng với tâm thức còn đầy dẫy phân biệt như mình, tức tâm qui ngã vẫn còn, thì mọi sinh hoạt cần phải cẩn trọng, không nên để rơi vào tà mạng. Vì sao? Vì với tâm vô phân biệt thì Địa ngục không khác Niết bàn, khổ lạc không hai, chư vị có gieo cái nhân Địa ngục thì việc thọ nhận Địa ngục của chư vị cũng như dạo xuân. Còn với tâm thức phân biệt của chúng sinh thì Địa ngục không phải là Niết bàn, một khi nhân đã gieo thì đủ duyên quả liền trổ. Khi không đủ nhẫn lực để chịu quả khổ nạn đó, mình sẽ gây ác nghiệp. Cứ thế mà nhân quả trả vay ngày càng trói buộc. Đó là điều mình phải cẩn trọng khi tâm vô phân biệt chưa có.
CHÁNH TINH TẤN: Tinh tấn thực hành các pháp trợ đạo để thành tựu bồ đề, gọi là chánh tinh tấn. Không có phần chánh tinh tấn này thì nghiệp ác dễ sinh, nghiệp thiện dễ nản v.v… Vì thế trong Lục độ, tinh tấn chiếm một độ riêng. Trong Bát chánh đạo, tinh tấn cũng có phần v.v…
CHÁNH NIỆM: Niệm, là ghi nhớ rõ ràng không quên đối với việc đã từng tập quen. Chánh niệm, là ghi nhớ đúng đắn tánh tướng của vạn pháp. Nó là nền tảng giúp phát sinh chánh định.
CHÁNH ĐỊNH: Định, là nền tảng để trí tuệ phát sinh, cũng là nền tảng giúp phát sinh những hiện tượng phi thường mà ta hay gọi là thần thông. Chánh định giúp phát sinh trí tuệ, nhưng với thần thông, tà định cũng giúp thần thông xuất hiện. Vì thế, để phân biệt loại định hành giả đang tu là tà hay chính, các bậc cổ đức không y cứ vào các hiện tượng mang tính thần thông, mà y cứ vào ba tướng tham sân si giảm nhiều hay ít để đánh giá.
Tổ Hiền Thủ nói: «Trong dính tà định thì ngoài mắc danh lợi». Cũng nói: «Tham sân si dần nhạt mỏng là tướng của chánh định». Luận Đại Thừa Khởi Tín cũng nói: «Tam muội của ngoại đạo đều không lìa tâm kiến, ái, ngã mạn, tham trước, danh lợi và sự cung kính ở thế gian. Chân như tam muội thì không trụ kiến tướng, không trụ tướng đắc, cho đến xuất định cũng không giải đãi, kiêu mạn, phiền não đã có dần dần nhạt mỏng v.v… ». Chúng ta có thể dựa vào những lời đó để biết thế nào chánh định, thế nào là tà định mà tránh.
CHÁNH VĂN
Nhờ CHỈ trang nghiêm nên dứt sạch được tất cả kiết sử. Nhờ QUÁN trang nghiêm nên như thật biết tự tánh các pháp.
GIẢI THÍCH
Người xưa nói: «Chỉ quán là nhân. Định tuệ là quả». Vì vậy muốn có định tuệ, chúng ta phải tu chỉ quán.
Chỉ, là dừng đi các sinh khởi trong lòng. Có 3 loại ‘chỉ’ giúp dừng đi các sinh khởi đó:
- Hệ duyên thủ cảnh chỉ: Trụ tâm vào một duyên nào đó để dừng vọng tưởng, như trụ tâm vào đan điền, vào chóp mũi v.v…
- Chế tâm chỉ: Tâm vừa khởi liền kiềm hãm lại không cho nó sinh khởi.
- Thể chân chỉ: Dùng trí tuệ quán sát biết tất cả pháp do nhân duyên sinh, không có tự tánh … Tâm không chấp thì vọng niệm tự dứt.
Như vậy, tu CHỈ là dừng đi những sinh khởi trong lòng, như ngài Huyền Giác nói: «Đoạn tâm tương tục». Nếu thực hành được như thế lâu dài thì vọng niệm mất lực, định lực hiện tiền, nên nói dứt sạch được tất cả kiết sử. Kiết sử, chỉ cho 10 sử và 9 kiết như tham, sân, si, mạn, nghi v.v…
Với hai loại CHỈ đầu, khi thực hành, hành giả tu thiền cần phải có tâm nhẫn nại và trường viễn, không nên có tâm nóng gấp. Buộc tâm hay kìm tâm đều phải tùy lực tùy phần mà làm. Khi thấy căng thẳng thì buông xả, sau hãy buộc tâm tiếp. Phải giữ sao cho tâm bình khí hòa, tránh tình trạng phát cuồng.
Quán, là vận dụng những gì đã đọc học được trong sách vở và trong kinh nghiệm tu hành để dừng đi tham sân si, cái ‘dừng’ đó chính là CHỈ. Nhờ môn QUÁN này trợ giúp mà môn CHỈ chúng ta tu đó không trở thành tà. CHỈ QUÁN song hành hiện tiền thì ĐỊNH TUỆ bình đẳng, có thể thấu rõ được bản chất của tham sân si cũng như của tất cả pháp, nên nói như thật biết tự tánh các pháp.
Đại sư Trí Khải nói: «Thân thường ngồi ngay thẳng tu Chỉ Quán, là phương pháp thù thắng cần yếu để vào đạo, nhưng còn ngại khi tiếp duyên đối cảnh. Nếu khi tiếp duyên đối cảnh mà không tu Chỉ Quán ấy là việc tu tâm có gián đoạn, những kiết nghiệp khi đối duyên liền sinh khởi, không thể chóng tương ưng với Phật pháp được. Nếu trong tất cả thời đều tu phương tiện Chỉ Quán thì chắc chắn người ấy thông đạt Phật pháp một cách nhanh chóng». Như vậy muốn tu CHỈ QUÁN có kết quả thì chúng ta phải tu trong tất cả thời, chỉ trừ khi ngủ. Song khi công phu đã miên mật và có lực thì khi ngủ, tự nó có công phu. Để rõ hơn về phần CHỈ QUÁN này, chúng ta nên nghiên cứu kỹ cuốn Thiền Căn Bản và Thiền Đốn Ngộ - HT Trúc Lâm dịch.
Chỉ Quán với pháp môn « Biết vọng không theo »
Biết vọng, là biết những gì đang sinh khởi trong tâm không có chất thật, chỉ là những thứ do huân tập mà có, không huân tập nữa thì nó sẽ hết. Với cảnh ở thế gian cũng như thế, biết chúng không có chất thật v.v…
. Nếu cái biết ấy là « thật thấy » như thế, tức thấy tất cả đúng là vọng, đó chính là TUỆ. Vì là vọng rồi, nên nó không còn lực dẫn mình chạy. Trạng thái tự tại an nhiên với vọng cảnh đó, chính là ĐỊNH.
. Nếu cái biết ấy còn nằm trên dạng suy nghĩ tư duy, hầu giúp chúng ta buông bỏ vọng niệm, thì nó thuộc QUÁN. Quán thế rồi, không để các vọng niệm ấy dẫn dắt, dừng đi sự tương tục của dòng vọng niệm, gọi là CHỈ.
Chỉ quán song hành thì sẽ nhận được cái quả là định tuệ bình đẳng.
Các việc cần biết khi tu Chỉ Quán
Theo Pháp Yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Yếu, muốn tu CHỈ QUÁN, cần phải thực hành các điều sau, thiếu một thì CHỈ QUÁN khó thành tựu.
1. Hội đủ 5 duyên:
1. Giữ giới thanh tịnh: Giữ những giới mà mình đã thọ. Giới là nền tảng giúp sinh chánh định. Tùy vào việc giữ giới cạn hay sâu mà tu Chỉ Quán được kết quả nhiều hay ít.
Giới nào lỡ phạm thì thành tâm sám hối đoạn trừ, khi nào diệt được mới thôi. Người phạm trọng giới thì thiền định bị chướng. Phải đối trước Tam bảo sám hối, thân thường ngồi ngay thẳng, quán tánh tội vốn không, đoạn tâm tương tục. Không thì phải tụng kinh Sám hối, kinh Đại thừa v.v… Nhờ đó giới được thanh tịnh, thiền định khai phát.
2. Ăn mặc đầy đủ: Đầy đủ nhưng không dư thừa. Mặc sao cho phù hợp với căn duyên của mình để tránh nóng lạnh. Ăn, nếu sơn hào hải vị và no quá thì tham dục phát sinh, thân nặng nề khó tọa thiền, nhưng thiếu và đói quá thì không còn sức để dụng công. Hai cực ấy đều nên tránh. Thân nhẹ nhàng, điều hòa, không bệnh thì việc tu tập dễ thành tựu.
3. Yên ở chỗ vắng: «Không làm tất cả việc, gọi là yên. Không ồn náo, gọi là vắng». Dù là ở chùa hay ở nơi thành thị ồn náo, nếu muốn tu Chỉ tốt, chúng ta đều phải đáp ứng được điều kiện ‘Yên ở chỗ vắng’ này thì Chỉ Quán mới thành tựu. Còn cứ ra vào thường xuyên nơi các công sở, giao tiếp bạn bè ở các quán ăn, rạp chiếu bóng v.v… thì khó mà tu Chỉ thành. Tiếp duyên nhiều không phải là vấn đề đối với người đã có định lực vững chắc, nhưng với người mới tập hành thiền thì không nên.
‘Không làm tất cả việc’ là ý nói chỉ tập trung vào việc dừng vọng niệm, không để tâm vào các việc khác. Ăn uống, tiêu tiểu v.v… đều tập trung quán tâm để dừng dòng tương tục, gọi là ‘không làm tất cả việc’.
Cư sĩ tại gia muốn tu tập Chỉ Quán được thành tựu cũng phải y đây mới thành tựu. Vì công việc, nhất là công việc bằng đầu óc thì vọng niệm phải sinh khởi nhiều, trong khi ‘Chỉ’ nghĩa là ‘dừng’ đi các vọng niệm. Nếu là người làm việc bằng chân tay thì điều kiện tu Chỉ được thuận lợi hơn.
Quan trọng của việc tu hành chính là PHÁT TÂM BỒ ĐỀ. Nếu là sự phát tâm bắt nguồn từ lòng chân thật thì cái sơ phát tâm ấy có năng lực rất lớn, nó giúp chúng ta dồn hết tâm sức cho việc tu hành, ngoại cảnh không còn chi phối được nữa. Khi CHỈ QUÁN đã có lực thì lực ấy sẽ giúp mình giữ được công phu khi làm việc. Ngoài việc biết có vọng hay không vọng, chúng ta không còn biết việc gì khác cho đến khi cái dồn tâm ấy bùng vỡ.
4. Dứt sự ràng buộc: Trong quá trình tu CHỈ, cần phải dứt các việc sau:
- Không tạo sự nghiệp thế gian.
- Hạn chế mọi kết giao khiến việc tu tập không liên tục.
- Dứt các kỹ thuật khéo léo, không làm thầy, làm thợ v.v…
- Đọc sách, học hỏi v.v… đều phải dứt bỏ.
Thực hiện được những điều đó thì việc tu Chỉ dễ thành tựu. Thiếu các tiêu chuẩn đó thì việc tu tập ít đạt kết quả. Vì thế, đưa ra là để chúng ta nắm được đường đi nước bước không lầm lẫn, không phải thiếu những tiêu chuẩn đó thì chúng ta bỏ luôn không tu. Tu được chút nào hay chút đó. Thứ gì có thể hạn chế được thì cố gắng hạn chế. Tu tập rồi, dùng công đức đó nguyện ‘Dứt bớt những ràng buộc, điều kiện vật chất được thuận tiện để việc tu hành có kết quả’. Nếu tu rồi mà thấy không có kết quả, thì phải kiểm nghiệm lại mình đã hội đủ 5 duyên cần thiết này chưa.
5. Thân cận thiện tri thức: Thiện tri thức nói đây không chỉ là vị thầy trực tiếp dạy mình hành thiền, mà còn chỉ cho bạn đồng tu, hoặc người giúp điều kiện cho mình tu hành. Nói thân cận, là thân cận trong cái duyên giúp việc thực hành CHỈ QUÁN được thành tựu. Còn thân cận để tán dốc khiến tâm thêm loạn thì thôi, một mình tốt hơn.
2. Quở trách ngũ dục: Ngũ dục là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Cũng chỉ cho tài, sắc, danh, ăn uống và ngủ nghỉ. Quở, để xa lìa không đắm nhiễm, không bị sắc tướng, âm thanh v.v… làm mê hoặc.
Ngủ nghỉ: Ngủ nhiều thì sinh mê muội, việc thế gian còn không thành công, huống là việc tu hành. Khi ngủ, lại không có sự hiểu biết. Những gì khi tỉnh thức, biết đó là việc ác để tránh, nhưng khi ngủ rồi, cứ theo đó mà làm. Sự ngủ nghỉ tai hại như thế nên cần phải tránh.
Phàm phu thì chưa thể ‘Thân ngủ mà tâm không ngủ’, cũng không thể thức sáng đêm, nên việc ngủ nghỉ cần được điều hòa. Việc tọa thiền, Phật dạy trong kinh Lăng Già: «Đầu hôm và buổi khuya chớ bỏ phế». Giấc sớm từ 3 giờ đến 5 giờ là giờ rất tốt cho việc ngồi thiền.
Sắc dục: Thấy sắc trai gái cùng các pháp ở thế gian, nếu thuận với quan niệm của mình thì sinh tâm ưa thích đắm nhiễm, không thuận thì sinh tâm ghét bỏ sân giận v.v… Đó đều là dạng của sắc dục. Tâm dính mắc vào sắc dục thì định lực không có. Suy nghĩ sắc dục làm tổn hại việc tu hành như thế để dừng đi tâm đắm nhiễm hay sân giận, chính là đang vận dụng QUÁN để CHỈ được thành tựu.
Thanh dục: Chỉ cho âm nhạc và tiếng ca ngâm v.v… Các vị tiên ở núi Tuyết nghe giọng hát của nàng Chân Đà La liền mất thiền định, tâm say mê cuồng loạn. Với các âm thanh không vừa ý thì sinh bực bội sân hận v.v… đều là dạng của thanh dục khiến mất thiền định.
Hương dục: Chỉ cho mùi vị của nam, nữ, thức ăn, uống, hương hoa v.v… Ngài Trí Khải nói: «Kẻ ngu không biết xét tướng trạng của nó, vừa ngửi liền sinh mê đắm, mở cửa cho các kiết sử bên trong». Vì thế cần phải quở trách để xa lìa.
Vị dục: Là các vị đắng, cay, chua, ngọt của thức ăn đồ uống. Chúng ta tu hành nên chúng ta ăn chay. Đó là điều rất tốt. Vì đã hạn chế bớt vị dục. Song ăn chay rồi mà thì giờ lại để hết vào việc ăn uống, bày tác đủ món cho theo khẩu vị, cho thỏa vị giác của mình thì vẫn rơi vào lỗi ‘vị dục’ nói đây. Ngoài việc mất thiền định trong hiện tại, tương lai chưa biết chuyện gì xảy ra khi mình còn dính mắc vào đó quá nhiều. Một vị Sa di vì thích vị tô lạc, sau khi chết thành con giòi bám theo tô lạc.
Xúc dục: Chỉ cho các xúc chạm, hợp thì sinh đắm nhiễm, không hợp thì sinh sân hận. Sự xúc chạm giữa hai người khiến sinh tâm tham đắm, dầu nóng bắn vào người khiến sinh tâm sân giận v.v… đều là dạng của xúc dục.
Xúc này là nguyên nhân lớn sinh ra các kiết sử. Xúc biến khắp thân thức nên chỗ sinh nhiễm rộng lớn. Lòng tham xúc tinh tế êm dịu, quán bất tịnh không có ích,[3] nên nó là thứ khó lìa.
Nếu chúng ta biết lỗi của ngũ dục nguy hiểm như thế rồi xa lìa, đó gọi là ‘quở trách dục’.
Khi chúng ta suy nghĩ ngũ dục chỉ mang lại những cái vui nhất thời, nhưng cái hại về sau là vô vàn rồi xa lìa, đó là đang vận dụng QUÁN để CHỈ được thành tựu.
Cảnh giới lạ trong khi tu Chỉ Quán
Trong khi tu CHỈ, thường có những cảnh giới lạ xuất hiện, dù là cảnh giới tốt hay xấu, đều phải bình tâm, quán chúng là không, tất cả đều từ tâm sinh v.v… và tham cứu ý kiến của thiện tri thức.
Hành giả tu CHỈ QUÁN cần phải nghiên cứu kỹ phần « Ngũ ấm ma » trong kinh Lăng Nghiêm.
10 lợi ích khi tu Chỉ Quán
Nếu chuyên cần tu học môn CHỈ QUÁN này thì có được 10 lợi ích sau:[4]
1. Thường được sự hộ niệm của mười phương chư Phật và Bồ tát.
2. Không bị các ma ác quỉ làm cho hoảng sợ.
3. Không bị 95 thứ ngoại đạo thần thánh hoặc loạn.
4. Xa lìa sự phỉ báng pháp thậm thâm. Trọng tội và nghiệp chướng dần nhạt mỏng.
5. Diệt hết các nghi ngờ và những sự hiểu biết xấu ác.
6. Lòng tin thêm tăng trưởng đối với cảnh giới Như Lai.
7. Xa lìa bi ai, ở trong sinh tử mà tâm không khiếp sợ, lại thêm dũng mãnh.
8. Tâm nhu hòa, không kiêu mạn.
9. Dù chưa được chánh định nhưng trong tất cả thời, tất cả chỗ, phiền não cũng giảm thiểu, chẳng còn ưa thích các pháp ở thế gian.
10. Nếu được chánh định thì không bị ngoại duyên và tất cả âm thanh làm cho kinh động.
CHÁNH VĂN
Nhờ PHƯƠNG TIỆN trang nghiêm nên chóng được thành tựu viên mãn vi, vô vi lạc.
GIẢI THÍCH
Phương tiện, là chỉ cho các pháp vừa nói trên, như Chỉ quán, Lục độ và 37 phẩm trợ đạo. Lập phần ‘phương tiện’ này là để dành cho những pháp môn chưa được liệt kê trên, như Trì chú, Niệm Phật, Tụng kinh và tất cả những phương thức mà chư vị thiện tri thức đã đặt ra tùy theo căn cơ của từng người, để dẫn dắt chúng ta về đạo vô thượng.
Gọi là phương tiện vì chúng không phải là chân lý. Song nhờ chúng mà đến được bờ kia, thâm nhập được chân lý, nên nói phương tiện.
Vi, vô vi lạc, là cái lạc hữu vi và lạc vô vi. Lạc hữu vi,là cái vui do phước báu sinh ra thuộc cõi Trời Người. Lạc vô vi, là cái vui Niết bàn.
CHÁNH VĂN
Này Long vương! Phải biết 10 thiện nghiệp này có thể khiến cho tất cả các pháp như Thập lực, Vô úy, Thập bát bất cộng pháp v.v… đều được viên mãn. Cho nên các ông cần chuyên cần tu học.
GIẢI THÍCH
Thập lực, là mười lực mà Phật có:
1. Biết như thật có lẽ ấy, không có lẽ ấy.
2. Biết các nghiệp, lãnh thọ, chỗ tạo nghiệp, nhân duyên, quả báo của chúng sinh trong ba đời.
3. Biết như thật các thiền, giải thoát, tam muội, định, uế, tịnh v.v...
4. Biết như thật mọi căn cơ cao thấp của chúng sinh.
5. Biết như thật mọi dục lạc của chúng sinh.
6. Biết vô số tánh của chúng sinh.
7. Biết chỗ đạt tới của tất cả đạo.
8. Biết tướng chung, nhân duyên chung của chúng sinh trong một đời, hai đời cho đến trăm ngàn đời trước.
9. Trí lực Phật có thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt của Trời, thấy rõ nghiệp hạnh cũng như sự hình thành và hoại diệt của tất cả chúng sinh.
10. Trí lực Phật sạch hết lậu hoặc, tâm vô lậu giải thoát, trí tuệ vô lậu giải thoát.
Tứ vô úy, là bốn việc không sợ. Đó là:
1. Nếu có người nói ‘Phật không thể biết hết tất cả’, Phật không sợ. Như kinh nói: “Chỉ riêng ta là người đạt được Nhất thiết chủng trí, không ai có thể như thật nói: ‘Phật không hay biết’. Ta không sợ việc ấy”.
2. Nếu có người nói ‘Phật chưa đoạn hết lậu hoặc và tập khí’, Phật không sợ. Như kinh nói: “Chỉ riêng ta đoạn được tất cả lậu hoặc và tập khí. Không ai có thể như thật nói: ‘Phật chưa hết lậu hoặc’. Ta không sợ việc ấy”.
3. Nếu có người nói ‘Phật nói không đúng pháp làm chướng đạo’, Phật không sợ. Như kinh nói: “Ta nói pháp làm chướng ngại đạo Niết bàn. Không ai có thể như thật nói: ‘Pháp ấy không chướng ngại đạo Niết bàn’. Ta không sợ việc ấy”.
4. Nếu có người nói ‘Phật nói không đúng đạo dứt khổ’, Phật không sợ. Như kinh nói: “Ta nói đạo dứt khổ đến Niết bàn. Không ai có thể nói: ‘Đạo ấy không thể đến Niết bàn’. Ta không sợ việc ấy”.
Hai việc đầu, là đầy đủ công đức tự lợi. Hai việc sau, là đầy đủ công đức lợi tha.
Có được bốn việc đó, là do lời nói đi đôi với việc làm. Những gì Phật nói ra đều do tự bản thân đã trải nghiệm qua. Không như chúng ta, có thứ nói ra chỉ là do nương nơi lời Phật Tổ mà nói. Thứ nào làm được rồi, vững vàng ăn chắc rồi, thì với thứ đó mình không sợ. Thứ gì chỉ mới nhái của Phật Tổ, trên sự vẫn chưa làm được thì nghe người phản bác liền hoảng.
Thập bát bất cộng pháp, là 18 pháp không chung. Vì chỉ Phật mới có 18 pháp này, nên nói không chung. Đó là:
1. Thân không lỗi.
2. Miệng không lỗi.
3. Niệm không lỗi.
4. Không có dị tưởng.
5. Không có tâm lìa thắng định.
6. Không có gì không biết mà đã xả bỏ.
7. Dục không giảm (Dục độ sinh).
8. Tinh tấn không giảm.
9. Niệm không giảm.
10. Tuệ không giảm.
11. Giải thoát không giảm.
12. Giải thoát tri kiến không giảm.
13. Tất cả thân nghiệp hành theo trí tuệ.
14. Tất cả khẩu nghiệp hành theo trí tuệ.
15. Tất cả ý nghiệp hành theo trí tuệ.
16. Trí tuệ biết đời quá khứ vô ngại.
17. Trí tuệ biết đời vị lai vô ngại.
18. Trí tuệ biết đời hiện tại vô ngại.
Muốn hiểu chi tiết về Thập lực và Tứ vô úy vv… nên tham khảo luận Đại Trí Độ quyển II.
CHÁNH VĂN
Này Long vương! Thí như tất cả thành, ấp, xóm, làng đều y nơi đại địa mà được an trụ. Tất cả dược thảo, cỏ cây, rừng rậm cũng nương nơi đại địa mà được sinh trưởng. 10 thiện đạo này cũng lại như vậy. Tất cả Trời Người y đó mà lập. Tất cả bồ đề của Thanh văn và Độc giác, các hạnh Bồ tát cùng với tất cả Phật pháp đều y nơi đại địa là 10 điều thiện này mà được thành tựu.
GIẢI THÍCH
Nhấn mạnh lại Thập thiện là nền tảng giúp nẩy sinh phước đức, thiền định, trí tuệ, bồ đề v.v… của cả 5 thừa. Được thân ở cõi Trời và cõi Người cũng là do tu 10 thiện nghiệp này. Tùy mức độ thực hành nhiều hay ít mà ta có thân tâm và hoàn cảnh như ý hay bất như ý.
CHÁNH VĂN
Phật dạy kinh này rồi, Long vương cùng các đại chúng ở cung Ta Kiệt La, tất cả Trời, Người, A tu la v.v… ở thế gian đều rất hoan hỉ, tin, nhận và phụng hành.
GIẢI THÍCH
Khi nghe pháp mà đúng duyên với mình thì lòng sinh hoan hỉ. Lòng đã hoan hỉ tức có niềm tin. Có niềm tin thì vâng nhận và làm theo. Việc làm theo đó, gọi là phụng hành.
Nguyện chúng ta đọc xong kinh này rồi, cũng hoan hỉ, tin nhận và phụng hành như thế.
[1] Phần in nghiêng.
[2] ( … ) là những chỗ trong luận Đại Trí Độ có nói, nhưng với nội dung đây lại không cần thiết, trích ra loãng khó theo dõi. Tuy không trích ra nhưng vẫn không làm ảnh hưởng đến ý của những đoạn cần trích.
[3] Luận Đại Trí Độ quyển I – phần Thiền ba la mật. HT Thiện Siêu dịch.
[4] Luận Đại Thừa Khởi Tín của Tổ Mã Minh – Phần Chỉ Quán.
Các tin khác
-
» THẬP THIỆN LƯỢC GIẢI (01/04)
-
» THẬP THIỆN LƯỢC GIẢI (P.1) (01/04)
-
» THẬP THIỆN LƯỢC GIẢI (P.2) (01/04)