Đại thừa khởi tín luận nghĩa ký (Hiền Thủ)

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (5)

Bao gồm các phần : Đối trị tà chấp - Phân biệt tướng phát tâm vào đạo - Phần tu hành tín tâm - Phần Khuyến tu và lợi ích. Lưu thông.

31/03/2017


Quyển 5
TU HÀNH TÍN TÂM - LỢI ÍCH VÀ KHUYÊN TU
 
II. ĐỐI TRỊ TÀ CHẤP
Trong phần đối trị tà chấp sau, có hai : Trước là ngay nơi gốc mà tổng nêu. Sau là nói riêng về việc trị chướng.
Chánh văn :
Tất cả tà chấp đều y nơi ngã kiến. Nếu lìa ngã thì không có tà chấp.                
Giải thích :
 
Đây là ngay nơi gốc mà tổng nêu. Trong phần nói riêng cũng có hai : Trước là đối trị lìa. Sau là rốt ráo lìa. Trong phần ‘đối trị lìa’nói sau có ba : Trước là nêu số. Kế là liệt kê tên. Sau, nói về tướng.
Chánh văn :
Ngã kiến có hai loại. Thế nào là hai? Một là nhân ngã kiến. Hai là pháp ngã kiến                  
Giải thích :
Trong phần liệt kê tên, nói ‘Nhân ngã kiến’ là chấp có tổng tướng chủ tể. Đây là do mê giáo mà vọng khởi của người mới học Đại thừa trong Phật pháp, không phải là cái khởi của ngoại đạo v.v... ‘Pháp ngã kiến’là chấp tất cả pháp đều có thể tánh, là chỗ khởi của Nhị thừa.
Trong phần nói về tướng, trước là nói về nhân, sau nói về pháp. Trong phần nhân ngã kiến cũng có hai : Tổng nêu và biệt giải thích.
Chánh văn :
NHÂN NGÃ KIẾN : Y nơi phàm phu nói có năm thứ.
1. Nghe Tu Đa la nói : «Pháp thân Như Lai rốt ráo vắng lặng như hư không», vì không biết là phá chấp, liền cho hư không là tánh Như Lai.                    
Giải thích :
Trong phần biệt giải thích, năm thứ này khác thế nào? Cái đầu là ứng vào quả. Bốn thứ còn lại là thông cả nhân quả. Lại, hai thứ đầu là đối với ‘không’mà lầm chấp. Ba thứ sau là đối với ‘có’mà biết nghịch.
Trong hai thứ chấp không, thứ đầu là vọng chấp sự không, lấy đó làm thể. Kế, là vọng chấp pháp thể chỉ là không, không có.
Trong ba thứ chấp có, thì trước là chấp tánh đức đồng với sắc tâm. Kế, là chấp pháp tánh vốn có nhiễm. Sau, là chấp tịnh pháp có thủy chung.
Hỏi : Các thứ này đã đều là trên pháp chân như mà chấp, sao lại nói nhân ngã chấp?
Đáp : Đây có hai cách giải thích :
1. Do phàm phu sơ học còn nhân ngã mà có cái chấp này, nên nói ‘nhân ngã chấp’.
2. Do trong Như Lai tạng có hai nghĩa : Một, là nghĩa bản giác, là chỗ đương nhân trên đó vọng chấp, nên nói ‘nhân ngã chấp’. Hai, là nghĩa lý thật, là pháp đang được quán. Nay y nơi nghĩa đầu mà nói, nên nói ‘nhân ngã chấp’.
Đối với năm thứ này, mỗi thứ lại có ba : Trước nêu Tu Đa La nói, là cái duyên khiến khởi chấp. Kế, ‘Vì không biết …’, là nói về tướng chấp. Sau, ‘Làm sao đối trị …’, là nói về tướng đối trị.
‘Vì không biết là phá chấp …tánh Như Lai’ là, vì chúng sinh chấp sắc thân Phật là tướng chất ngại. Nói pháp thân như hư không là nói lầm ý, chấp đồng với thái hư.      
Chánh văn :
Làm sao đối trị? Phải rõ tướng hư không là pháp hư vọng, thể không, không có thật.                    
Giải thích :
Có hai : Đây nói hư không này là vọng chẳng phải chân. Sau sẽ nói pháp thân là chân chẳng phải vọng.
Phần này cũng có ba : Trước là lập, kế là giải thích, sau là kết luận. Trong phần lập cũng có hai : Trước là tình có. Sau, ‘Thể không không có thật’ là lập lý không.      
Chánh văn :
Vì đối với sắc nên có. Là tướng bị thấy khiến tâm sinh diệt.                    
Giải thích :
Có hai : Trước nói về tình có. Trong tánh biến kế là tương đãi mà có. Là vọng niệm sở duyên nên chẳng phải pháp thân. Vì thế nói ‘Vì đối với sắc …’.
Chánh văn :
Vì tất cả sắc pháp từ xưa đến nay là tâm, thật không có sắc bên ngoài. Nếu không có sắc thì không có tướng hư không.                    
Giải thích :
Đây là giải thích lý không. Vốn do tương đãi với sắc là không, nên nay đã duy tâm không sắc, sao lại có thể có không, nên nói ‘VÌ TẤT CẢ sắc pháp từ xưa ... tướng hư không’.
Chánh văn :
Nghĩa là, tất cả cảnh giới chỉ từ nhất tâm vọng khởi mà có. Nếu tâm lìa vọng động thì tất cả cảnh giới đều diệt, chỉ là nhất chân tâm, không chổ nào mà chẳng khắp. Đây là nghĩa rốt ráo về tánh trí quảng đại của Như Lai, không phải như tướng hư không.                      
Giải thích :
Trong phần kết có hai. Trước kết tình có. Sau kết lý không. Là trong chân chẳng phải vọng.
‘CHỈ LÀ NHẤT TÂM …’, là nói đến pháp đồng với thí dụ. Vì trùm khắp như hư không nên lấy hư không làm thí dụ.
‘ĐÂY LÀ NGHĨA rốt ráo…’, là phân biệt pháp khác với thí dụ. Đó là bản giác tánh trí quảng đại của Như Lai, há đồng với pháp thái hư hư vọng.      
Chánh văn :
2. Nghe Tuđala nói : «Các pháp thế gian, thể rốt ráo không» cho đến «Pháp chân như niết bàn cũng rốt ráo không, từ xưa đến nay tự không, lìa tất cả tướng», vì không biết là phá chấp, lại cho tánh niết bàn chân như đều không.                          
Giải thích :
‘PHÁP CHÂN NHƯ niết bàn …’ là, kinh Đại Phẩm nói: «Cho đến niết bàn như huyễn như mộng. Nếu có một pháp hơn cả niết bàn ta cũng lại nói như huyễn như mộng». Vì chẳng biết là phá tình kế có, liền cho tánh đức là không, nên nói ‘VÌ KHÔNG BIẾT …’    
Chánh văn :
Làm sao đối trị? Phải biết chân như pháp thân, thể chẳng không, đầy đủ vô lượng tánh công đức                 

Giải thích
:
Đây là phần đối trị, có thể tự hiểu.
Chánh văn :
3. Nghe Tuđala nói : «Như Lai tạng không có tăng giảm, thể đầy đủ tất cả pháp công đức », vì không biết là phá chấp, lại cho Như Lai tạng có pháp sắc tâm, tự tướng sai biệt.                          
Giải thích :
Chấp tánh đức đồng với hư vọng.
Chánh văn :
Làm sao đối trị? Đó chỉ là y nơi nghĩa chân như mà nói. Nói sai biệt là y nơi nghĩa nhiễm ô sanh diệt mà nói.                          
Giải thích :
‘Y NƠI NGHĨA chân như …’, là hai mà không hai. ‘NÓI SAI BIỆT là y nơi …’, là không hai mà hai. Như văn trên đã nói: «Vì y nơi nghiệp thức sanh diệt…».
Chánh văn :
4. Nghe Tuđala nói : «Tất cả pháp nhiễm ô sinh tử ở thế gian đều y Như Lai tạng mà có. Tất cả các pháp không lìa chân như», vì không biết nên cho Như Lai tạng, tự thể có đủ tất cả pháp thế gian sinh tử.                          
Giải thích :
Vì không hiểu nghĩa tùy duyên, lại cho tự tánh có nhiễm.
Trong phần đối trị sau, trước là đoạt phá, sau là tùng phá.  
Chánh văn :
Làm sao đối trị? Vì Như Lai tạng, từ xưa đến nay, chỉ có vô lượng các tịnh công đức không lìa, không đoạn, không khác nghĩa chân như. Còn vô lượng pháp nhiễm ô phiền não chỉ là vọng có, tánh vốn tự không, từ vô thủy đến nay chưa từng cùng Như Lai tạng tương ưng. Nếu thể của Như Lai tạng có pháp hư vọng mà cho rằng chứng đắc có thể dừng hẳn được vọng thì không có việc này.
Giải thích :
‘VÌ NHƯ LAI TẠNG, từ xưa đến nay …’, là nói tịnh đức diệu hữu.
‘VÔ LƯỢNG pháp nhiễm ô …’, là nói lý của vọng nhiễm thì không.                           
‘TỪ VÔ THỦY đến nay …’, là nói vọng chẳng nhập chân.
‘NẾU THỂ CỦA Như Lai tạng …’, là phần tùng phá. Có thể tự biết.
Trong cái chấp thứ 5 sau, trong phần giáo có hai pháp, trong phần chấp cũng có hai, trong phần đối trị cũng có hai, đó là sinh tử và niết bàn.
Chánh văn :
5. Nghe Tuđala nói : «Y Như Lai tạng nên có sinh tử, y Như Lai tạng nên được niết bàn», vì không biết nên cho sinh tử có thủy. Vì thấy có thủy nên lại cho niết bàn mà Như Lai sở đắc có chung, trở lại làm chúng sinh.                            
Giải thích :
Nghe ‘Y NHƯ LAI TẠNG nên có …’, lại cho chân có trước vọng có sau, nên khởi cái thấy có ‘thủy’. Như ngoại đạo lập ‘Từ minh sơ sinh giác…’. Chúng sinh đã có ‘thủy’ mà sau lại y nơi chân mà chứng được niết bàn, trở lại làm chúng sinh, thành có nghĩa thủy vậy. Như ngoại đạo lập ‘Chúng sinh chung tận trở lại minh sơ, gọi là niết bàn. Từ minh sơ khởi giác lại làm chúng sinh’. Đây cũng như vậy.
Trong phần đối trị sau có hai: Trước, nói pháp thể lìa ‘thủy’, là hiển sinh tử không có ban đầu. Lương Nhiếp Luận nói: «Sanh tử không có chỗ bắt đầu». Sau, nói pháp thể lìa ‘chung’, tức niết bàn không có chung tận.
Chánh văn :
Làm sao đối trị? Vì Như Lai tạng không có mé trước nên tướng vô minh cũng không có thủy. Nếu nói ngoài tam giới lại có chúng sinh mới khởi thì đó là kinh của ngoại đạo nói. Lại, Như Lai tạng không có mé sau, niết bàn mà chư Phật sở đắc cùng với đó tương ưng nên cũng không có mé sau.
Giải thích :
‘KINH CỦA NGOẠI ĐẠO nói…’ là, kinh Nhân Vương nói: «Ta nói ngoài tam giới riêng có một chúng sinh giới tạng thì đó là kinh Đại Hữu của ngoại đạo nói, không phải Thất Phật nói».
Trong phần pháp ngã kiến sau cũng có ba : Trước là nguyên do khởi chấp. Kế là hiển tướng chấp. Sau, là đối trị.      
Chánh văn :
PHÁP NGÃ KIẾN : Y Nhị thừa độn căn nên Như Lai chỉ vì họ mà nói nhân vô ngã. Vì chỗ nói chưa rốt ráo, nên thấy có pháp ngũ ấm sinh diệt, sợ hãi sinh tử, vọng thủ niết bàn.
Làm sao đối trị? Vì pháp ngũ ấm, tự tánh chẳng sinh nên không có diệt, xưa nay niết bàn. Lại nữa, chỗ cứu cánh thì lìa vọng chấp. Phải biết nhiễm pháp tịnh pháp đều là tương đãi, không có tự tướng có thể nói. Cho nên tất cả pháp từ xưa đến nay, chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng phải không, rốt ráo chẳng có tướng có thể nói. Mà có ngôn thuyết thì phải biết đó là phương tiện thiện xảo của Như Lai. Mượn lấy ngôn thuyết để dẫn đạo chúng sinh, còn chỉ thú của ngài đều là ly niệm qui về chân như. Vì niệm tất cả pháp khiến tâm sinh diệt, chẳng nhập được thật trí.                      
Giải thích :
Trong phần ‘chỗ cứu cánh thì lìa…’ có hai. Trước là ứng vào pháp, nói về đối trị. Sau, hội lại giải thích để hàng phục nghi. Trong phần đối trị cũng có hai. Trước ứng vào pháp để hiển chung. Sau là nêu rộng các loại mà cứu.
‘NHIỄM TỊNH tương đãi …’ là, Trung Luận nói : «Nếu phải nhân đợi thành. Duyên pháp trở thành đợi. Nay không có nhân đợi. Cũng không pháp được thành». Y theo đó mà hiểu. Tương đãi hay không tương đãi, pháp thể vốn như thế, chẳng phải do sau khi ngộ phương tiện như vậy, nên nói ‘Phương tiện thiện xảo …’. Nói trí cùng với thức là hiển cái ‘chẳng phải tâm’ nói trước, có cùng với không là hiển cái ‘chẳng phải sắc’ nói trước.
Trong phần giải thích nghi, nghi rằng : Thánh giải thông đạt các pháp, lìa tánh chẳng có tướng có thể nói. Vì sao lại có các thứ ngôn từ?
Giải thích rằng : Chỉ là mượn ngôn thuyết khéo dẫn đạo, còn ý chỉ chẳng ở ngôn từ. Trong đó có ba : Trước, hội lại để hàng phục nghi. Kế, nói về thánh ý. Sau, lại dùng giải thích để kết thúc.
Trong phần Phát Thú Đạo Tướng sau, có hai : Trước, tổng nêu đại ý để tên của nó. Sau là phân biệt riêng.  
III. PHÂN BIỆT TƯỚNG ĐẠO PHÁT TÂM[1]    
Chánh văn :
Phân biệt tướng đạo phát tâm, là phân biệt cái nghĩa phát tâm tu hành hướng đến đạo (mà chư Phật đã chứng được) của tất cả Bồ tát.                      
Giải thích :
‘ĐẠO, mà chư Phật chứng được’, là nêu phần giác đạo phải hướng đến (sở thú).
‘CÁI NGHĨA PHÁT TÂM … của tất cả Bồ tát’, là nói về nhân hạnh của người hướng đến (năng thú).
Đây muốn nói, Bồ tát phát tâm hướng về cái đạo mà chư Phật đã chứng được thì không đồng, có nhiều loại. Nên nói ‘Phân biệt tướng đạo phát tâm’.
Trong phần giải thích riêng có ba : Trước, nêu số. Kế, liệt kê tên. Sau, nói về tướng.    
Chánh văn :
Phát tâm, lược nói có ba thứ. Thế nào là ba?
1. Tín thành tựu phát tâm.
2. Giải hạnh phát tâm.
3. Chứng phát tâm.                      
Giải thích :
‘TÍN THÀNH TỰU phát tâm’, là giai vị Thập trụ kiêm luôn Thập tín. Trong giai vị Thập tín, tu tập tín tâm thành tựu, phát tâm quyết định, liền nhập thập trụ. Sơ tâm của Thập trụ gọi là Phát tâm trụ. Mãn hạnh Thập tín gọi là tín thành tựu, tiến vào sơ tâm Thập trụ, nên nói ‘Phát tâm’.
‘GIẢI HẠNH phát tâm’, là giai vị Thập hồi hướng, kiêm luôn Thập hạnh. Trong giai vị Thập hạnh, hành giả có thể hiểu pháp không, thuận với thập độ hạnh. Hạnh thành thuần thục, phát tâm hồi hướng, vào giai vị Thập hồi hướng, nên nói ‘Giải hạnh phát tâm’.
‘CHỨNG phát tâm’, là giai vị Sơ địa trở đi, cho đến Thập địa. Hai thứ trước là tương tự phát tâm. Một thứ sau, là chân thật phát tâm.
Trong phần giải thích rộng sau, ba loại phát tâm trên nói thành ba đoạn. Trong đọan đầu cũng có ba : Trước, nói về hạnh tín tâm. Kế, nói về tướng phát tâm. Sau, nói về lợi ích phát tâm. Trong phần nói về hạnh tín tâm cũng có hai : Trước là hỏi, Sau là đáp.
Chánh văn :
TÍN THÀNH TỰU PHÁT TÂM, là y nơi hạng nào, tu những hạnh gì được thành tựu niềm tin mà chịu phát tâm?  
Giải thích :
Trong phần hỏi này có ba :
1. Hỏi về người tu hành.
2. Hỏi về hạnh tu.
3. Người nào được tín thành tựu?
Trong phần đáp sau có hai : Trước, đáp ba câu hỏi. Sau, kết thành vị.
Chánh văn :
Đó là y nơi chúng sinh bất định tụ, có lực huân tập thiện căn, tin nghiệp quả báo, hay khởi 10 điều thiện, chán cái khổ sinh tử, muốn cầu vô thượng bồ đề, được gặp chư Phật đích thân cúng dường, tu hành tín tâm.      
Giải thích :
‘CÓ LỰC HUÂN TẬP …’, là trả lời câu hỏi thứ hai. Đây là nói về nhân hạnh. Vì có văn huân và lực nội huân của bản giác, đều là y nơi lực tu thiện căn đời trước, nên tin nghiệp quả mà bỏ ác theo thiện tu phúc đức phần.
‘CHÁN CÁI KHỔ SINH TỬ …’, là thành tựu bồ đề phần và giải thoát phần thiện.
‘ĐƯỢC GẶP CHƯ PHẬT …’, là nói về duyên tu hành. Ứng với duyên này mà tu 10 loại hạnh tín tâm.
Chánh văn :
Trải qua một vạn kiếp, tín tâm thành tựu nên được Phật và Bồ tát giáo hóa, khiến họ phát tâm. Hoặc vì đại bi nên tự phát tâm. Hoặc do chánh pháp muốn diệt, vì nhân duyên hộ pháp nên tự phát tâm.        
Giải thích :
Đây là trả lời câu hỏi thứ ba. Trong đó có hai : Trước, nói về lúc hạnh đã đầy. Sau, ứng vào thắng duyên mà nói việc phát tâm của họ.
‘MỘT VẠN KIẾP’, là mười ngàn kiếp tu tín tâm thành tựu.
‘ĐƯỢC PHẬT VÀ …’, là phát sơ tâm Thập trụ. Như kinh Anh Lạc Bản Nghiệp nói : «Sự tin tưởng này, Bồ tát trong mười ngàn kiếp hành 10 giới pháp, sẽ vào tâm Thập tín, nhập giai vị Sơ trụ». Giải thích : Nói ‘Nhập giai vị sơ trụ’ là giai vị Sơ phát tâm trụ của Thập trụ. Vì đến giai vị này mới được tín tâm bất thối, cho nên cũng nói là ‘Vào tâm Thập tín’, không phải nói Thập tín của Thập giải trở về trước.[2] Vì sao biết? Vì kinh Nhân Vương nói : «Tập chủng tánh có thập tâm, đã vượt tất cả thiện địa của Nhị thừa. Tập nhẫn này trở về trước hành thập thiện, Bồ tát có thoái có tiến. Giống như lông tơ theo gió sang đông sang tây. Tuy dùng mười ngàn kiếp hành chánh đạo phát tâm bồ đề cũng chỉ tương đương với giai vị tập nhẫn». Tướng của 10 loại tâm đã nói trong Hoa Nghiêm Sớ.
Thắng duyên tuy nhiều, lược nói ba thứ : Một thuộc tha lực. Hai thuộc tự lực, cũng đồng với tâm thứ ba sau. Do giáo hóa nên được trực tâm. Do hộ pháp nên được thâm tâm, đồng với tâm còn lại.
Chánh văn :
Tín tâm thành tựu được phát tâm như thế thì nhập chánh định tụ, rốt ráo không còn bị thối chuyển, gọi là trụ trong chủng tánh Như Lai, tương ưng với chánh nhân.        
Giải thích :
‘TÍN TÂM thành tựu …’, là kết vị.
Trước ‘NHẬP CHÁNH ĐỊNH TỤ không còn bị thối chuyển’ là muốn nói sau không còn mất. Đó là nhập giai vị Sơ phát tâm trụ của Thập trụ. Không còn rơi vào phàm phu hay Tiểu thừa.
‘GỌI LÀ trụ trong …’, là nói đối với thượng vị đã có phần. Đó là trụ ở giai vị tập chủng tánh. Hạnh, đã thuận với nhân nội huân, nên nói CHÁNH NHÂN. Từ giai vị này trở đi, nhất định sẽ đắc quả, nên nói CHÁNH NHÂN. Vì không còn thối chuyển.          
Chánh văn :
Nếu có chúng sinh thiện căn ít ỏi, từ lâu xa đến nay, phiền não sâu dày, tuy cũng được gặp Phật Tổ cúng dường, nhưng lại khởi chủng tử trời người, hoặc khởi chủng tử Nhị thừa, giả như có cầu Đại thừa thì căn tánh cũng bất định, lúc tiến lúc thối.        
Giải thích :
‘NẾU CÓ chúng sinh …’ là nói về cái yếu kém để hiển cái thù thắng. Thắng, là như cái tiến đã nói trên. Thối, là như đây đang nói. Nhiếp Luận nói : «Các Bồ tát thuộc vị Thập tín tu Đại thừa chưa kiên cố, đa phần chán sợ sinh tử, tâm từ bi đối với chúng sinh còn yếu, muốn bỏ bản nguyện Đại thừa, tu đạo Tiểu thừa, nên nói ‘muốn tu hành biệt Đại thừa ý’».
Nói về các tướng yếu kém, có hai :
Trước, nói về lực nội huân yếu. Có 4 câu :
PHIỀN NÃO SÂU DÀY, là hoặc nặng.
Ba thứ sau là tam đức mỏng : Một là cầu phước nhân thiên. Hai là cầu tiểu quả. Ba là … Đại thừa.[3]  
Chánh văn :
Hoặc là cúng dường chư Phật chưa đến một vạn kiếp, trong khoảng ấy gặp duyên cũng có phát tâm. Như là thấy sắc tướng của chư Phật mà phát tâm. Hoặc nhân cúng dường chúng tăng mà phát tâm. Hoặc nhân các vị Nhị thừa giáo hóa khiến phát tâm. Hoặc học thứ khác mà phát tâm v.v... Phát tâm như thế đều là bất định. Gặp duyên xấu dễ thối chuyển rơi vào Nhị thừa.            
Giải thích :
Sau, nói về lực ngoại duyên yếu. Có hai : Một, lúc hạnh chưa được đầy đủ. Hai, gặp duyên không được tốt. Có 4 câu : Một, thấy sắc thân Phật. Hai, cúng dường đại chúng. Ba, gặp thiện hữu kém. Bốn, học các giáo khác. Các thứ đó đều không phải tâm bi trí của Bồ tát, nên thối chuyển.      
‘PHÁT TÂM như thế …’, là kết luận vì sao thành thối chuyển.
Tướng phát tâm nói sau có hai : Trước, nói chính về ba tâm. Sau, hỏi đáp trừ nghi. Trong phần nói về ba tâm có hai : Trước hỏi sau đáp. Trong phần đáp có nêu số và giải thích.          
Chánh văn :
Lại nữa, Tín thành tựu phát tâm là phát những tâm nào? Lược nói có ba thứ. Thế nào là ba ?
1. Trực tâm, vì chánh niệm pháp chân như.
2. Thâm tâm, vì thích gom tất cả thiện hạnh.
3. Đại bi tâm, vì muốn bạt tất cả khổ cho chúng sinh.          
Giải thích :
TRỰC TÂM, là tâm hướng về lý. Không có đường rẽ nào khác nên nói CHÁNH NIỆM CHÂN NHƯ, là gốc của hai hạnh.
THÂM TÂM, là đầy đủ vạn đức, qui hướng nguồn tâm, nên nói ‘THÍCH GOM các thiện hạnh’, là gốc của hạnh lợi tha.
ĐẠI BI TÂM, rộng bạt các khổ ở đời, khiến được bồ đề, nên nói ‘MUỐN BẠT …’, là gốc của hạnh lợi tha.
Diệu hạnh tuy rộng, không ngoài ba hạnh đó, nên nói ‘LƯỢC NÓI ba thứ’. Các thứ này là Tam tụ giới. Tam đức, Tam thân đều do đây mà ra. Cũng chính là Tam hồi hướng. Vì trước là hồi hướng thật tế, kế là hồi hướng bồ đề, sau là hồi hướng chúng sinh.
Trong phần giải thích các nghi nói sau có hai : Trước hỏi sau đáp.
Chánh văn :
Hỏi : Trên nói pháp giới nhất tướng, thể Phật không hai, vì sao không chỉ niệm chân như, lại mượn tìm học các thiện hạnh?          
Giải thích :
Trong phần đáp sau, có hai : Trước là đáp câu hỏi này. Sau, hiển lại phương tiện. Trong phần đáp cũng có hai : Trước, là thí dụ. Sau, là đáp.      
Chánh văn :
Đáp : Thí như báu mani lớn, thể tánh nó sáng trong mà có vết quặng bẩn. Nếu người tuy biết tánh của nó mà không dùng phương tiện mài dũa thì rốt cuộc báu cũng không sáng trong.            
Giải thích :
Phần đáp có ba.        
Chánh văn :
Pháp chân như của chúng sinh cũng như vậy. Thể tánh tịnh không mà có vô lượng phiền não cấu nhiễm. Nếu người tuy niệm chân như mà chẳng dùng phương tiện mỗi mỗi huân tu thì cũng không được tịnh.                
Giải thích :
Đây là đáp câu hỏi trước.
Chánh văn :
Bởi cấu nhiễm nhiều vô lượng cùng khắp tất cả pháp nên tu tất cả các thiện hạnh, dùng đó để đối trị. Nếu người tu hành tất cả các thiện pháp, tự nhiên qui thuận pháp chân như.                
Giải thích :
‘BỞI CẤU NHIỄM …’, là giải thích lý do tu các hạnh.
‘NẾU NGƯỜI TU …’, nói thiện hạnh thuận với chân. Vì các thiện hạnh, ngoài thì nghịch với vọng nhiễm, trong thì thuận với chân.
Chánh văn :
Lược nói phương tiện có bốn thứ, thế nào là bốn?                
Giải thích :
Trong phần giải thích sau có bốn môn : Môn đầu là đạo vô trụ. Hai môn kế là hạnh tự lợi. Môn sau cùng là hạnh lợi tha.
Trong phần tự lợi, trước là đoạn đức, kế là trí đức. Trong bốn môn này, đều có ba nghĩa. Một, là biệt danh. Hai, giải thích tướng. Ba, là ý tu.      
Chánh văn :
1. Phương tiện HẠNH CĂN BẢN : Quán tất cả pháp, tự tánh vô sinh, lìa vọng kiến, không trụ sinh tử. Quán tất cả pháp, nhân duyên hòa hợp nghiệp quả chẳng mất. Khởi tâm đại bi tu các phúc đức, nhiếp hóa chúng sinh, không trụ niết bàn. Vì tùy thuận pháp tánh vô trụ.                    
Giải thích :
Phần giải thích tướng có hai : Trước, là trí. Sau, là bi. Đây là hạnh vô trụ.
Chánh văn :
2. Phương tiện HAY DỪNG : Tàm quí và hối lỗi thì có thể dừng tất cả các pháp ác, không để chúng tăng trưởng. Vì tùy thuận pháp tánh lìa các lỗi.                      
Giải thích :
Khuyên đoạn hai ác. Đây là môn Chỉ trì.
Chánh văn :
3. Phương tiện PHÁT KHỞI TĂNG TRƯỞNG THIỆN CĂN : Siêng năng cúng dường lễ báo Tam bảo, tán thán tùy hỉ, khuyến thỉnh chư Phật. Vì tâm thuần hậu ái kính Tam bảo nên lòng tin được tăng trưởng, mới có thể dốc lòng cầu đạo vô thượng. Lại, nhân nơi lực hộ trì của chư Phật, Pháp, Tăng nên có thể trừ bỏ nghiệp chướng, thiện căn chẳng thối chuyển. Vì tùy thuận pháp tánh lìa si chướng.                        
Giải thích :
Khuyên tu hai thiện. Đây là môn Tác trì.
Trong phần giải thích tướng có hai :
‘SIÊNG NĂNG CÚNG DƯỜNG …’, là ứng vào duyên tu hành.
‘VÌ TÂM THUẦN HẬU …’, là lợi ích khi tu hành thành tựu. Trong phần ích lợi cũng có hai : Lợi ích đầu, là sinh trí. Lợi ích sau, là diệt chướng.
Việc ái và kính có 4 câu :
. Ái mà không kính, như mẹ thương con.
. Kính mà không ái, như tớ đối với chủ.
. Vừa kính vừa ái, như kẻ tu hành đối với Tam bảo.
. Không kính không ái, như oan gia v.v…            
Chánh văn :
4. Phương tiện ĐẠI NGUYỆN BÌNH ĐẲNG : Phát nguyện hóa độ hết thảy chúng sinh đến tận vị lai, chẳng sót một ai, khiến họ đều được cứu cánh niết bàn vô dư. Vì tùy thuận pháp tánh không đoạn dứt, pháp tánh rộng lớn khắp tất cả chúng sinh, bình đẳng không hai, chẳng niệm đây kia, rốt ráo tịch diệt.                        
Giải thích :
TẬN VỊ LAI, là tâm trường viễn.
HÓA ĐỘ tất cả … không sót một ai’, là tâm quảng đại.
KHIẾN ĐƯỢC VÔ DƯ NIẾT BÀN, là tâm đệ nhất.
Trong phần ý tu cũng có hai :
‘VÌ TÙY THUẬN …’, là hiển thuận tánh.
‘PHÁP TÁNH RỘNG LỚN …’, là ý khởi đại nguyện. Đây cũng là thường tâm.
Phần lợi ích của sự phát tâm, nói ở văn sau, có bốn : Một, hiển thắng đức. Hai, hiển lỗi vi tế. Ba, thấu đạt quyền giáo. Bốn, tán thán thật hạnh.
Chánh văn :
Bồ tát phát tâm này thì thấy được ít phần về pháp thân. Do cái thấy pháp thân đó, mà tùy thuận nguyện lực, hay hiện tám thứ làm lợi ích chúng sinh. Đó là, rời cung trời Đâu Suất, nhập thai, trụ thai, ra khỏi thai, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập niết bàn. Nhưng Bồ tát này chưa được gọi là pháp thân Bồ tát, vì từ vô lượng đời quá khứ đến nay, nghiệp hữu lậu chưa thể đoạn dứt, tùy chỗ sinh còn bị cái khổ vi tế. Nhưng chẳng phải là bị nghiệp trói buộc. Bởi do có lực tự tại của đại nguyện.                            
Giải thích :
‘ĐƯỢC CÁI KIẾN …’, là công đức tự lợi. Bồ tát Thập giải y nơi môn tỉ quán, thấy được pháp giới. Cũng có thể giải thích : Y nơi môn nhân không mà thấy pháp thân.
‘DO CÁI KIẾN …’, là nói về 8 tướng lợi sinh, là công đức lợi tha. Sơ phát tâm trụ trong Thập giải có thể làm việc này.
‘NHƯNG BỒ TÁT NÀY …’, có hai ý : Một là muốn nói hạng này khác với các địa trên. Sau, là khác với phàm ngu.
CHƯA GỌI LÀ PHÁP THÂN, vì chưa chứng chân, chỉ y nơi tín lực mà thấy được ít phần, khác với hàng Bồ tát đăng địa. ‘VÌ TỪ VÔ LƯỢNG …’, là giải thích lý do vì sao khác. Một là do nghiệp ở quá khứ chưa mất. Kế là những vi tế khổ vẫn còn tương tục. Sau, là hiển khác với phàm phu. Vì đã nghe nghiệp khổ chưa hết thì cho là đồng với phàm phu không khác. Nay, nói Bồ tát ở nơi chỗ báo tu chưa hòa thiện ấy mà được tự tại. Không do hoặc nghiệp nên nói ‘KHÔNG BỊ NGHIỆP trói buộc’. Vì do lực của bi nguyện, lưu hoặc để độ sinh, nên nói ‘BỞI DO CÓ LỰC …’.        
Trong phần thông đạt quyền giáo sau có hai : Trước là nêu giáo. Sau, giải thích chỗ thấu đạt.    
Chánh văn :
Như trong Tudala có chỗ nói ‘thối đọa ác thú’ thì không phải là thật thối. Chỉ vì đối với các vị Bồ tát sơ học chưa vào được chánh vị mà lại giải đãi, làm cho sợ hãi khiến họ can đảm mạnh mẻ hơn.                            
Giải thích :
Kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp nói: «Bồ tát Thất trụ trở về trước, gọi là thối phần. Nếu không gặp thiện tri thức từ một kiếp cho đến mười kiếp thì thối bồ đề tâm. Như thiên tử Tịnh Mục, vương tử Pháp Tài, Xá Lợi Phất v.v… sắp nhập Đệ thất trụ, thời gian ấy gặp nhân duyên ác tri thức nên thối trở lại phàm phu, đọa trong các đường dữ …». Đây, giải thích ý kinh này chỉ là quyền ngữ, không phải thật thối, chỉ là dọa kẻ sơ tâm để họ không giải đãi.
Trong phần quyền và thật hạnh nói sau có hai.
Chánh văn :
Lại, các vị Bồ tát này một khi đã phát tâm thì xa lìa khiếp nhược, rốt ráo chẳng còn sợ rơi vào Nhị thừa. Nếu nghe đến vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp gian nan cần khổ tu hành mới được niết bàn, cũng không khiếp sợ. Vì tin và biết rằng tất cả pháp từ xưa đến nay vốn vẫn là niết bàn.                            
Giải thích :
‘LẠI, CÁC VỊ … VÀO Nhị thừa’, tức đối với dưới thì không luyến.
‘NẾU NGHE …’, thì đối với trên không sợ.
‘VÌ TIN VÀ …’, là giải thích lý do không sợ. Vì đây nói văn kinh ấy là quyền không phải thật.
Trong phần Giải Hạnh Phát Tâm nói sau có hai.
Chánh văn :
GIẢI HẠNH PHÁT TÂM, phải biết đây đã chuyển thành thù thắng. Bởi vị Bồ tát từ sơ chánh tín tới nay, khi a tăng kỳ kiếp thứ nhất sắp hết, đối với pháp chân như đã thâm hiểu hiện tiền, chỗ tu là ly tướng.                            
Giải thích :
Trước là Tín mãn nhập Giải. Đây là Hạnh mãn nhập Hướng. Lại phát tâm sâu nên biết là chuyển thành thù thắng.
Sau là hiển tướng thù thắng. Trong đó có hai :
‘BỞI BỒ TÁT này …’, là nêu thời gian để hiển sự thù thắng. Trong giai vị Thập hồi hướng, hướng về Sơ địa. mà lại gần nên nói SẮP HẾT.
‘ĐỐI VỚI PHÁP CHÂN NHƯ…’, là nói về hạnh thù thắng. Trong đó có hai : Trước là tổng. Sau là biệt.
Tổng là ‘ĐỐI … THÂM HIỂU RÕ RÀNG’, là nói về Giải thù thắng. Khác với vị trước nên nói THÂM, khác với vị sau nên chỉ nói GIẢI.
CHỖ TU LÀ LY TƯỚNG, là nói hạnh thù thắng.
Trong phần biệt nói sau, ứng vào lục độ mà nói hai thứ đó.
Chánh văn :
Vì biết pháp tánh, thể nó không xan tham nên tùy thuận tu hạnh ‘Bố thí ba la mật’. Vì biết pháp tánh không nhiễm, lìa lỗi ngũ dục nên tùy thuận tu hạnh ‘Giới ba la mật’. Vì biết pháp tánh không khổ, lìa sân não nên tùy thuận tu hạnh ‘Nhẫn nhục ba la mật’. Vì biết pháp tánh không có tướng thân tâm, lìa giải đãi nên tùy thuận tu hạnh ‘Tinh tấn ba la mật’. Vì biết pháp tánh thường định, thể của nó không loạn động nên tùy thuận tu hạnh ‘Thiền ba la mật’. Vì biết pháp tánh thể nó sáng suốt, lìa vô minh nên tùy thuận tu hạnh ‘Bát nhã ba la mật’.                                
Giải thích :
‘BIẾT … KHÔNG XAN THAM’, là muốn hiển cái Giải thâm nói trên.
‘TÙY THUẬN TU HẠNH …’, là hiển chỗ tu ly tướng, là ly tướng tam luân v.v… Vì Bồ tát Thập hạnh trở đi được pháp không, có thể thuận với pháp giới tu hạnh lục độ v.v… Tức giải hạnh là chỗ y tựa để phát tâm. Vì cấu chướng trái với chân nên tu hạnh lìa chướng để thuận với như. Các thứ còn lại có thể tự biết.
Phần Chứng Phát Tâm sau có ba: Nói rõ về thể phát tâm. Kế, nói về tướng phát tâm. Sau, thành tựu đầy đủ công đức. Trong phần thể phát tâm cũng có ba : Trước, nêu địa vị. Kế, nói về hạnh thể, là căn bản trí. Sau, nói về thắng dụng, là hậu đắc trí.
Chánh văn :
CHỨNG PHÁT TÂM, Bồ tát từ Tịnh tâm địa đến Cứu cánh địa chứng cảnh giới gì? Đó là chân như. Vì y chuyển thức nói là cảnh giới mà chỗ chứng ấy không có cảnh giới. Chỉ là trí chân như, gọi là pháp thân.                                
Giải thích :
Trong phần hạnh thể, ‘VÌ Y CHUYỂN THỨC… cảnh giới’ thì cảnh giới nói đó chính là hiện thức, là y nơi chuyển tướng mà khởi. Nhưng ngay khi là chánh thể của bản trí thì thật không có năng sở, đâu thể nói đó là cảnh giới. Nay ứng vào hậu đắc trí, là lúc nghiệp thức chưa hết, chuyển thức và hiện thức đều còn, mượn ngay nơi thức này nói về cái định trong chánh chứng, có chân như làm cảnh sở chứng. Vì hậu đắc trí phản duyên chánh chứng, cũng có hiện tợ cảnh nên nói ‘chuyển thức hiện’, mà thật là chân chứng năng sở bình đẳng,[4] nên nói ‘CHỈ LÀ CHÂN NHƯ …’.
Trong phần thắng dụng của hậu đắc trí có bốn:
Chánh văn :
Bồ tát ấy trong khoảng một niệm có thể đến khắp mười phương thế giới không bỏ sót cúng dường chư Phật, thỉnh chuyển pháp luân, chỉ là khai đạo lợi ích chúng sinh, chẳng nương văn tự. Hoặc thị hiện vượt qua các địa chóng thành chánh giác, là vì các chúng sinh khiếp nhược. Hoặc nói: «Ta phải vô lượng a tăng kỳ kiếp mới thành Phật đạo», là vì các chúng sinh giải đãi hay khinh mạn. Hay thị hiện như thế với vô lượng phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.                                  
Giải thích :
1. Công đức thượng thủ thỉnh pháp. Có hai câu : Trước, là thỉnh pháp. Sau, là ý của việc thỉnh pháp.
2. Công đức tùy căn duyên xúc. Có ba: Một là xúc. Hai là duyên. Mỗi thứ lại có hai : Trước là nêu dụng. Sau là nói ý. Ba, là tổng kết.              
Chánh văn :
Mà thật ra Bồ tát, chủng tánh căn cơ là đồng, phát tâm là đồng, chỗ chứng cũng đồng, không có chuyện vượt qua. Vì tất cả Bồ tát đều phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp. Chỉ vì thuận theo thế giới chúng sinh chẳng đồng, chỗ thấy chỗ nghe căn dục tánh khác mà thị hiện chỗ hành cũng có sai biệt.  
Giải thích :
3. Công đức thật hạnh thù thắng.
CHỦNG TÁNH CĂN CƠ ĐỒNG, là nhân đồng.
PHÁT TÂM ĐỒNG, là hạnh đồng.
CHỖ CHỨNG ĐỒNG, là đồng chứng chân như.
KHÔNG CÓ CHUYỆN VƯỢT QUA, là thời gian đồng.
Chánh văn :
Chỉ vì thuận theo thế giới chúng sinh chẳng đồng, chỗ thấy chỗ nghe căn dục tánh khác mà thị hiện chỗ hành cũng có sai biệt.  
Giải thích :
4. Công đức thắng dụng ứng cơ. Là công đức cuối trong bốn công đức.
Chánh văn :
Lại, tướng phát tâm của Bồ tát này có ba thứ tâm. Tướng nó rất vi tế. Thế nào là ba?
1. Chân tâm vô phân biệt
2. Phương tiện tâm, tự nhiên làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
3. Nghiệp thức tâm, khởi diệt rất vi tế.    
Giải thích :
CHÂN TÂM, là trí căn bản vô phân biệt.
PHƯƠNG TIỆN TÂM, là trí hậu đắc.
NGHIỆP THỨC TÂM, là thức Alaida, chỗ y tựa của hai trí. Lý thật, cũng có chuyển thức và hiện thức. Nay chỉ lược nêu tướng tế căn bản. Đây không phải là công đức phát tâm, chỉ là hiển lúc khởi hai trí của hàng Bồ tát này, vẫn bị sinh diệt vi tế chi phối, không đồng với công đức của Phật địa thuần tịnh. Cho nên hợp làm tướng phát tâm.
Trong phần công đức thành tựu viên mãn có hai : Đầu tiên là hiển thắng đức. Sau, hỏi đáp trừ nghi. Trong phần hiển thắng đức thì trước, nêu chung địa vị công đức viên mãn, sau nói về công đức viên mãn.
Chánh văn :
Lại, chư vị Bồ tát này, công đức thành tựu viên mãn, nơi trời Sắc cứu cánh thị hiện thân cao lớn hơn hết thảy thế gian. Là vì một niệm tương ưng với tuệ, vô minh lập tức hết, gọi là nhất thiết chủng trí. Tự nhiên có nghiệp dụng không thể nghĩ bàn.    
Giải thích :
CÔNG ĐỨC THÀNH TỰU VIÊN MÃN, là nhân vị đã tột. Địa Luận nói : «Một là hiện báo lợi ích, thọ Phật vị».
‘NƠI TRỜI SẮC CỨU CÁNH …’, quả vị đã hiển. Địa Luận nói : «Hai là hậu báo lợi ích, Ma ê thủ la trí xứ sinh».
Hỏi : Vì sao tha thọ dụng báo thân lại ở cõi trời này?
Đáp : Một nói, vì y nơi thập vương mà hiển thập địa. Bồ tát ở địa thứ 10 tương đương với vua cõi trời, ở nơi thân này hiển thành bồ đề. Nghĩa còn lại đã nói riêng.
MỘT NIỆM TƯƠNG ƯNG, là hạnh tự lợi viên mãn, hiển chân tâm thành tựu. Đó là khi một niệm thủy giác đạt đến nguồn tâm, khế hợp với bản giác, nên nói TƯƠNG ƯNG.
Vì vô minh hết, hiển chiếu các pháp, nên gọi là NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ.
Cũng có thể giải thích :
MỘT NIỆM TƯƠNG ƯNG, là vô gián đạo.
NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ, là giải thoát đạo.
‘TỰ NHIÊN CÓ nghiệp dụng…’, là giải lợi tha đức, chỉ cho tâm phương tiện trên, ý nói không đợi công dụng vậy.
Cũng có thể hiểu, trước là Trí tịnh tướng, sau là Bất tư nghì nghiệp tướng, nên nói «Bản giác tùy nhiễm được thành».
Trong phần giải thích nghi có hai là hỏi và đáp. Trước hỏi về Nhất thiết chủng trí. Sau hỏi về Tự nhiên nghiệp dụng.  
Chánh văn :
Hỏi : Hư không vô biên nên thế giới vô biên. Thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên. Chúng sinh vô biên nên tâm hành sai biệt cũng vô biên. Cảnh giới như thế không thể hạn định. Nếu vô minh diệt thì không có tâm tưởng, làm sao có thể biết hết mà nói là Nhất thiết chủng trí?    
Giải thích :
Trước là nêu ra cái nghi : Có hư không xứ thì đều có thế giới, có thế giới xứ thì đều có chúng sinh. Có chúng sinh xứ thì đều có tâm hành. Cảnh giới như thế phần hạn khó biết.
Sau, từ ‘NẾU VÔ MINH DIỆT…’, là giả thiết để nạn vấn, Nạn rằng: Chẳng phải chỉ có cảnh bên ngoài là vô biên nên phần hạn khó biết, mà bên trong hết tâm tưởng thì làm sao biết được?    
Chánh văn :
Đáp : Tất cả cảnh giới vốn là nhất tâm, lìa các niệm tưởng.
Giải thích :
Đáp rằng : Chỉ là do bên trong hết tâm vọng tưởng nên có thể biết rộng bên ngoài. Trong đó có ba : Trước, lập chánh lý. Kế, nói ‘phi’ để hiển cái mất. Sau, nói ‘thị’ để hiển cái được.
Trong phần lập chánh lý, cảnh tuy vô biên nhưng không ra ngoài nhất tâm. Đã chứng tâm nguồn thì sao chẳng thể biết? Cảnh của tâm này lìa các vọng niệm, nên hết tâm tưởng mới có thể biết được, vì thế nói ‘Tất cả cảnh giới …’.    
Chánh văn :    
Vì chúng sinh vọng thấy cảnh giới nên tâm có phần hạn. Vì vọng khởi niệm tưởng, chẳng ứng hợp với pháp tánh, nên không thể hiểu rõ.    
Giải thích :
Đây nói ‘phi’ để hiển cái mất. Có hai câu : Trước, vọng thấy cảnh có phần hạn. Kế, vì vọng khởi tưởng niệm. Giải thích lý do không thấy là để nói vì có vọng thấy nên có cái không thấy.
Chánh văn :    
Chư Phật Như Lai lìa kiến tướng, nên không chỗ nào mà chẳng khắp. Vì là tâm chân thật nên chính là tánh của các pháp. Tự thể hiển bày soi rõ tất cả pháp hư vọng, có đại trí dụng với vô lượng phương tiện. Tùy theo chỗ nhận hiểu của chúng sinh cảm ứng được mà hay khai thị mọi thứ pháp nghĩa, nên gọi là Nhất thiết chủng trí.      
Giải thích :
Đây là nói ‘thị’ để hiển cái được.
‘LÌA KIẾN TƯỚNG nên …chẳng khắp’, là nói không có cái vọng thấy nên không gì là không thấy.
‘TÂM CHÂN THẬT … tánh các pháp’ là, Phật tâm lìa vọng, thể nhất tâm nguyên, không có thủy giác khác, nên nói chân thật. Bản giác này, trong môn sinh diệt, là thể của vọng pháp, nên nói TÁNH CÁC PHÁP. Tất cả vọng pháp đều là tướng của bản giác Phật tâm, tướng đã hiện trên tự thể, vì thể chiếu tướng ấy, hữu hà nạn liễu, mà chẳng liễu tri,[5] nên nói ‘TỰ THỂ HIỂN BÀY …’.
Ở văn trên, nói về dụng báo thân và hóa thân, là ở trong tâm chúng sinh mà nói. Nay nói vọng pháp của chúng sinh là ở nơi Phật tâm mà nói. Đó là do nguồn tâm không hai, nên được như thế. Kinh Hoa Nghiêm nói : «Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sinh cũng như thế. Tâm, Phật và chúng sinh, ba thứ đó không có sai biệt» là chỉ cho chỗ này. Vì đồng thể trí lực, khởi phương tiện thù thắng nhiếp hóa hữu tình, nên nói ‘CÓ ĐẠI TRÍ DỤNG … chủng trí’.              
Chánh văn :    
Hỏi : Nếu chư Phật có nghiệp tự nhiên hay hiện tất cả chỗ làm lợi ích chúng sinh, còn tất cả chúng sinh hoặc thấy được thân ngài, hoặc thấy thần biến, hoặc nghe ngài nói, không gì không lợi ích thì vì sao ở thế gian phần nhiều không thấy?
Đáp : Chư Phật Như Lai, pháp thân bình đẳng biến khắp tất cả chỗ, không có tác ý, nên nói tự nhiên. Chỉ y tâm chúng sinh mà hiện. Tâm chúng sinh y như chiếc gương, gương nếu bẩn thì sắc tượng chẳng hiện. Tâm chúng sinh cũng như vậy, nếu bị cấu nhiễm thì pháp thân chẳng hiện.          
Giải thích :
Trong phần đáp, có pháp và dụ hợp lại.
Vì pháp thân trùm khắp trong tâm chúng sinh, nên chỉ cần có cơ cảm chán và cầu thì liền hiển dụng thô hay tế, không phải do công dụng. Văn trên đã hiển nghĩa này.
GƯƠNG NẾU BẨN, là nói không có cơ cảm với Phật, không phải là phiền não hiện hành. Vì như Thiện Tinh v.v... tâm đang trong phiền não mà vẫn thấy Phật.
PHÁP THÂN CHẲNG HIỆN, là cái dụng có thể hiện báo và hóa của pháp thân. Nay y vào gốc mà nói nên nói ‘pháp thân chẳng hiện’. Trong Nhiêp Luận, ‘Thập nhị thậm thâm’ đều là công đức của Pháp thân mà hiển hiện sự thâm thâm. Trong đó nói : «Do thất tôn chẳng hiện, như trăng hiện nơi chậu bể’. Giải thích : Thế gian chẳng thấy chư Phật nhưng Phật thân thì thường trụ ở thế gian. Vì sao chẳng thấy? Đây như trong chậu bể nên nước không thể tụ lại. Nước chẳng thể tụ nên chậu bể tuy thật có trăng chiếu xuống mà vẫn không hiện được. Cũng vậy, chúng sinh không có được Samatha nhuần nhuyễn liên tục, thì chư Phật dù có đó, cũng không hiện được. Nước dụ như tánh nhuần nhuyễn của Samatha vậy. Đây là nương nơi định mà thấy Phật.
Thấy Phật, là do quá khứ tu tập niệm Phật tam muội nên đời này thấy Phật thân, không phải hiện đời phải y nơi định tâm mới có thể thấy Phật. Vì khi tâm đang tán loạn vẫn có thể thấy Phật. Trong Nhiếp Luận, lấy định tập ở quá khứ làm nhân, không phải ứng vào hiện đời mà nói. Còn luận này thì lấy căn thuần thục làm nhân, không phải ứng vào hoặc không.
Phần Gỉải Thích xong.      
PHẦN TU HÀNH TÍN TÂM
Từ trên đến đây đã nói về ĐẠI THỪA. Đây, nói riêng về KHỞI TÍN. Trong đó co ba : Trước, ngay nơi người mà nói ý. Kế, ứng vàp pháp mà nói rộng. Sau, hiển phương tiện phòng thối chuyển.
Chánh văn :
Đã nói về phần Giải Thích, nay nói về phần Tu Hành Tín Tâm. Phần này là y nơi chúng sinh chưa vào Chánh định tụ mà nói, nên nói ‘Tu hành tín tâm’.
Giải thích :
Bất định tụ có hai loại : Một, tu tín tâm đã đầy đủ. Vì họ mà nói ‘Phát thú đạo tướng’ giúp vào Chánh định tụ, là hạng thắng nhân nói trước. Hai, tu tín tâm chưa đầy đủ, là kẻ hạ liệt nói trước. Chính là loại căn cơ mà phần Tu Hành Tín Tâm này đề cập đến. Dùng 4 loại tín và 5 loại hạnh giúp họ tu hành, khiến tín tâm thành tựu viên mãn. Tín tâm thành mãn rồi, lại y nơi Phát thú đạo tướng mà vào Chánh định tụ.
Trong phần nói rộng có hai : Trước, nêu hai câu hỏi. Sau, là hai câu đáp.
Chánh văn :
Thế nào là tín tâm ? Làm sao tu hành?
Giải thích :
Trong phần đáp sau, trước nói về tín tâm, là nêu số, kê ra giải thích. Trong phần giải thích, có bốn thứ giúp tín tâm không hoại.
Chánh văn :
Thế nào là bốn?
1. Tin căn bản, là thích niệm pháp chân như.
2. Tin Phật có vô lượng công đức,
Giải thích :
TÍN CĂN BẢN, là pháp chân như, là thầy của chư Phật, là nguồn của vạn hạnh, nên nói CĂN BẢN. Chẳng phải chỉ huyền khởi tín tâm, cũng phải thích niệm và quán sát, nên nói ‘THÍCH NIỆM pháp chân như’.
Chánh văn :
2. Tin Phật có vô lượng công đức, thường nhớ nghĩ, thân cận, cúng dường, cung kính, hầu phát khởi thiện căn và nguyện cầu tât cả trí.
3. Tin Pháp có lợi ích lớn, thường nhớ nghĩ tu hành các ba la mật.
3. Tin tăng tu hành chân chánh, tự lợi lợi tha. Thường thích thân cận chúng Bồ tát, cầu học hạnh như thật.  
Giải thích :
Đây là ứng vào thắng cảnh của Tam bảo mà khởi tín tâm. Trong Tam bảo, mỗi bảo đều có hai: Trước là nêu thắng đức của sở tín. Kế, khởi thắng nhân để nguyện cầu.  
Sau, là trả lời câu hỏi thứ hai, có ba phần : Trước là nêu số và ý. Kế, hỏi số và liệt kê tên. Sau, y nơi câu hỏi mà giải thích riêng.  
Chánh văn :
Tu hành thì có 5 môn có thể thành tựu tín tâm.    
Giải thích :
‘CÓ THỂ thành tựu tín tâm ấy’ là, có tín mà không hành thì tín chẳng kiên cố. Tín mà không kiên cố thì gặp duyên liền thối thất, nên cần tu 5 hạnh, giúp thành tựu tín tâm khiến chẳng còn thối thất.      
Chánh văn :
Thế nào là năm? Một là môn Thí, hai là môn Giới, ba là môn Nhẫn, bốn là môn Tấn, năm là môn Chỉ Quán.    
Giải thích :
Đây là liệt kê tên. Vì Chỉ Quán hợp lại mà tu song vận không hai nên chỉ có năm.
Trong phần giải thích riêng sau cũng có hai : Trước, là bốn hạnh lược nêu. Sau, một hạnh nói rộng. Trong bốn hạnh đó cũng có hai : Trước, hiển bốn hạnh tướng. Sau, thành tựu riêng môn tấn để rõ phương tiện trừ chướng. Bốn môn chia làm bốn phần.
Chánh văn :
Thế nào là tu hành môn Thí? Nếu gặp những ai đến càu xin, mình có tài vật gì đều tùy lực giúp họ, để tự xả xan tham mà cũng khiến người kia hoan hỉ. Nếu gặp người bị ách nạn khủng bố, thì tùy sức mình mà giúp họ hết sợ. Nếu có chúng sinh đến cầu pháp thì tùy sự thông hiểu của mình mà phương tiện giảng nói, không nên tham cầu danh lợi và sự cung kính mà chỉ nghĩ đến việc tự lợi, lợi tha, hồi hướng bồ đề.      
Giải thích :
Thí có ba loại : Bố thí tài, bố thí sự không sợ và Bố thí pháp.
Chánh văn :
Thế nào là tu hành môn Giới? Là chẳng giết hại, chẳng trộm cắp, chẳng dâm dật, chẳng nói hai lưỡi, chẳng nói lời ác, chẳng vọng ngôn, chẳng ỷ ngữ, xa lìa xan tham, tật đố, giả dối, nịnh nọt, quanh co, sân nhuế và tà kiến. Nếu là người xuất gia thì phải biết chiết phục phiền não, nên cũng cần xa lìa chỗ rối ren ồn náo, thường ở chỗ tịch tĩnh, tu tập hạnh ít muốn biêt đủ, hạnh đầu đà v.v… cho đến một tội nhỏ, tâm cũng sinh sợ hãi hổ thẹn mà hối cải. Chẳng được xem thường những giới cấm mà Như Lai đã đặt ra. Phải giữ gìn sự tị hiềm và chê bai, chẳng để chúng sinh vọng khởi tội lỗi.        
Giải thích :
Giới cũng có ba :
‘CHẲNG GIẾT HẠI …’ là Nhiếp luật nghi giới.
‘NẾU LÀ NGƯỜI XUẤT GIA …’, là Nhiếp thiện pháp giới.
Trong đó, ‘CHO ĐẾN MỘT LỖI NHỎ …’, là hộ giới tâm.
‘PHẢI GIỬ GÌN …’, là nhiếp chúng sinh giới.    
Chánh văn :
Thế nào là tu hành môn Nhẫn? Là phải nhẫn chịu những não hại mà người khác mang lại, không ôm lòng trả báo. Cũng phải nhẫn chịu đối với lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.        
Giải thích :
Nhẫn có hai :
1. Tha bất nhiêu ích nhẫn
2. An thọ nhẫn : Đối với cảnh thuận nghịch vui oán đều không động tâm.
LỢI, là tài vinh cho mình.
SUY, là tổn hao tàn nát.
HỦY, là vượt lỗi mà chê bai
DỰ, là vượt đức mà ca ngợi
XƯNG, là y nơi thật đức mà tán thán
CƠ, là y nơi thật lỗi mà luận bàn.
KHỔ, là xâm hình bức bách
LẠC, là tâm thần thích khoái
Chánh văn :
Thế nào là tu hành môn Tấn? Là đối với các việc thiện, tâm không giải đãi, thối chuyển, lập chí kiên cường xa lìa sự khiếp nhược. Phải nhớ từ quá khứ lâu xa đến nay, ta đã hư vọng thọ nhận tất cả đại khổ của thân tâm không có lợi ích. Cho nên, cần phải siêng tu mọi công đức lợi mình, lợi người, chóng lìa các khổ.        
Giải thích :
Tinh tấn có ba :
‘VỚI CÁC VIỆC THIỆN …’, là chuyên cần dũng mãnh tinh tấn.
‘LẬP CHÍ …’, là tinh tấn khó hoại.
‘PHẢI NHỚ …’, là tinh tấn không đủ. Để nhớ mình đã trầm luân thọ nhận dài lâu những đại khổ một cách hư vọng. Để tự chuyên cần tu thiện không chán.
‘CHO NÊN …’, là kết luận để khuyên tu.
Trong phương tiện trừ và phòng chướng nói sau, có hai : Trước, nói về chướng. Sau, nói về trị chướng.      
Chánh văn :
Lại nữa, nếu có người tuy tu hành tín tâm nhưng do từ trước đến nay, có các chướng ác nghiệp trọng tội, bị tà ma chư quỉ làm não loạn, hoặc bị các sự việc ở thế gian mỗi mỗi kéo lôi trói buộc, hoặc bị bệnh khổ làm bực phiền, có rất nhiều sự chướng ngại …
Giải thích :
Chướng có hai : Trong có nghiệp chướng làm nhân. Ngoài, có hoặc ma tà não v.v… làm duyên. Đây là báo chướng.  
Chánh văn :
Cho nên, cần phải dũng mãnh tinh cần, ngày đêm sáu thời lễ bái chư Phật, thành tâm sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ, hồi hướng bồ đề thường chẳng bỏ phế, để trừ các chướng, thiện căn tăng trưởng.        
Giải thích :
Đây là phần trị chướng.
‘SÁU THỜI LỄ BÁI …’, là tổng nêu phương tiện trừ chướng. Như người phủi nợ y . Cũng vậy, hành nhân lễ bái chư Phật thì được chư Phật hộ niệm, có thể giải thoát các chướng.
‘THÀNH TÂM …’, là riêng trừ bốn chướng.
  1. Với cái chướng ác nghiệp thì sám hối để trừ diệt.
  2. Với cái chướng hủy báng chánh pháp thì khuyến thỉnh để trừ diệt.
  3. Với cái chướng tật đố những thứ thù thắng của người, thì tùy hỉ để đối trị.
  4. Với cái chướng ưa thích ba cõi, thì hồi hướng để đối trị.    
Do bốn chướng trên mà hành nhân không bỏ các hạnh, chẳng hướng bồ đề, nên tu bốn hạnh để đối trị. Lại, cái trị chướng thứ nhất là dùng Chỉ trì, ba cái chướng sau là dùng Tác trì.
Trong phần Chỉ Quán sau có hai : Trước là hỏi. Sau giải thích tướng. Trong phần giải thích tướng cũng có hai : Trước là lược nêu. Sau là nói rộng. Trong phần lược nêu có ba : Trước là Chỉ. Kế là Quán. Sau là song thuận.
Chánh văn :
Thế nào là tu hành môn Chỉ Quán? Chỉ, là dừng tất cả tướng cảnh giới, tùy thuận nghĩa Sa ma tha Quán.        
Giải thích :
DỪNG TẤT CẢ TƯỚNG CẢNH GIỚI là, bởi trước do phân biệt mà làm thành ngoại trần. Nay do giác tuệ đạo lý duy thức, phá tướng ngoại trần. Tướng trần đã dừng, nên nói CHỈ.
TÙY THUẬN NGHĨA QUÁN SAMATHA, là hiển môn Chỉ. Samatha, đây nói là Chỉ. Samatha, là Phạn ngữ, là ứng vào phương tiện chánh Chỉ, vẫn giữ tiếng phương đó. Tỳ bà xá na cũng như thế. Vì khi cả hai hiện tiền mới gọi là Chỉ Quán, nên nay chỉ nói TÙY THUẬN.                  
Chánh văn :
Quán, là phân biệt tướng nhân duyên sinh diệt, tùy thuận nghĩa Tỳ bát xá na Quán.        
Giải thích :
‘PHÂN BIỆT tướng nhân duyên sinh diệt’ là, y nơi môn sinh diệt mà quán sát pháp tướng, nên nói PHÂN BIỆT. Du Già Luận Bồ Tát Địa nói: «Trong đó, Bồ tát nếu đối với các pháp không có chỗ phân biệt, phải biết gọi là Chỉ. Nếu đối với các pháp, thắng nghĩa lý thú và các vô lượng an lập lý thú, thế tục diệu huệ, phải biết gọi là Quán», thì biết y nơi môn chân như dừng đi tướng các cảnh giới không có chỗ phân biệt, là thành tựu căn bản trí vô phân biệt. Y nơi môn sinh diệt phân biệt thuyết tướng, quán các lý thú, là thành tựu hậu đắc trí. Nhưng hai môn chỉ là nhất tâm. Cho nên, cả hai đều vận hành mới được gọi là chánh Chỉ Quán.
Sau là giải thích nghĩa song thuận.
Chánh văn :
Thế nào là tùy thuận?
Dùng hai nghĩa ấy dần dần tu tập không lìa nhau, nên cả hai đều hiện tiền.      
Giải thích :
DẦN DẦN TU TẬP, là hiển phương tiện (năng tùy thuận).
CẢ HAI ĐỀU HIỆN TIỀN, là nói môn Chỉ Quán (sở tùy thuận).
Theo tướng mà luận, Chỉ gọi là định, Quán gọi là tuệ. Ngay thật mà nói thì định này thông cả Chỉ Quán. Tuệ cũng như vậy. Lương Nhiếp Luận nói: «Thập ba la mật gồm có hai thể : Một là ‘không tán loạn’ làm thể. Đó là Chỉ định. Hai là ‘không điên đảo’ làm thể. Đó là Quán tuệ.
Trong phần nói rộng sau, có ba: Trước là chỉ. Kế là Quán. Sau là cả hai đều hành.
Trong phần Chỉ có 5 ý : 1/Phương pháp tu Chỉ. 2/Công năng thù thắng của việc tu Chỉ. 3/Nói về ma sự. 4/Giản trạch ngụy khác chân. 5/Hiển lợi ích khuyên tu.
Trong phần trước cũng có hai: Trước nói hạng người thù thắng có thể vào. Sau, nói về hạng bị các chướng không thể vào. Trong hạng người thù thắng cũng có hai: Trước là nhờ sự yên tĩnh mà dừng tâm, tu phương tiện Chỉ. Sau, tu Chỉ thành tựu được định, trừ chướng, không còn thối thất. Trong phần nhờ sự yên tĩnh dừng tâm cũng có hai: Trước, là ứng vào ngoại duyên. Sau, là bên trong an tâm.                          
Chánh văn :
Tu tập Chỉ là, ở chỗ yên tĩnh, ngồi ngay thẳng, chánh ý.      
Giải thích :
Ở CHỖ YÊN TĨNH, là duyên để tu Chỉ. Nói đủ có 5 duyên:
1. Nhàn cư tĩnh xứ : là ở trong rừng núi và các chỗ yên tĩnh. Vì ở nơi thành ấp thì nhất định có náo động.
2. Trì giới thanh tịnh : là lìa nghiệp chướng. Nếu là kẻ bất tịnh thì phải sám hối.
3. Lương thực và áo quần đầy đủ.
4. Có thiện tri thức dẫn dắt.
5. Bỏ hết các duyên sự.
Nay chỉ lược nêu duyên đầu, nên nói ‘Ở chỗ yên tĩnh’.
NGỒI NGAY THẲNG, là điều thân. CHÁNH Ý, là điều tâm.
Điều thân, thì trước phải ngồi nơi yên tĩnh, cốt được an ổn cho lâu, không có gì trở ngại. Sau phải chỉnh chân, hoặc là toàn già hoặc là bán già. Nếu là toàn già thì trước đặt chân phải lên đùi trái, kéo lại gần thân, khiến cho các ngón chân ngang đều với đùi trái. Kế là nới lỏng đai áo sao cho hoàn chỉnh để khi ngồi không rơi tuột. Sau, lấy tay trái để lên tay phải đặt đối nhau ngay trên chân và kéo sát vào gần thân, cứ ngay giữa mà an.
Đến chỉnh thân, đầu tiên là động thẳng thân, mở các đốt tay chân …[6] như pháp Tự án ma. Cũng đừng để tay chân sai khác. Chỉnh thân ngay thẳng để xương sống tương đối, không cong cũng không ngữa. Kế là chỉnh đầu cổ, để mũi đối với rốn, không nghiêng lệch, không cúi, không ngước. Lưỡi thì đặt lên vòm. Mắt mở không nhắm hoàn toàn. Đã nói rộng như trong hai cuốn Chỉ Quán của thiền sư Trí Khải, tông Thiên Thai. Đây chỉ nói tổng quát, nên nói ‘Ngồi ngay thẳng’.
Điều tâm, hành giả thời mạt pháp, kẻ có nguyện chính thì ít, người cầu tà thì nhiều, phong thái như là tịch tĩnh mà thật là cầu danh lợi thế gian. Tâm đã chẳng chánh mà được định thì chẳng thế có. Lia cái cầu tà này, gọi là CHÁNH Ý. Ý muốn để việc quán tâm này cùng với lý tương ưng, độ mình và độ người đến đạo vô thượng, gọi là CHÁNH Ý.
Từ trên đến đây là nói về uy nghi tu Chỉ. Sau là nói về việc an tâm bên trong, thứ lớp tu Chỉ. Trong đó có hai : Trước là ngồi mà tu Chỉ. Sau, tu chỉ trong các oai nghi còn lại. Trong ‘Ngồi tu chỉ’ cũng có hai : Trước là lìa cảnh điên đảo.                       .                  
Chánh văn :
Chẳng nương hơi thở, chẳng nương hình sắc, chẳng nương nơi không, chẳng nương đất nước gió lửa. Cho đến, chẳng nương nơi thấy nghe hiểu biết. Tất cả các tưởng thuộc niệm đều trừ. Cũng trừ luôn tưởng trừ. Vì tất cả pháp xưa nay không tưởng. Niệm niệm chẳng sinh. Niệm niệm chẳng diệt.      
Giải thích :
CHẲNG NƯƠNG HƠI THỞ, là sổ tức quán.
CHẲNG NƯƠNG HÌNH SẮC, là xương chạm v.v… 4 tướng xanh, vàng, đỏ, trắng. 5 tướng không, đại, thủy v.v… đều là cảnh giới sở duyên của sự định.
THẤY, NGHE, HIỂU, BIẾT là thức nhất thiết xứ. Chung với các thứ trước nữa là 10 nhất thiết xứ.
THẤY, NGHE, HIỂU, BIẾT là hiển lúc tán tâm, thủ lấy lục trần. Đối với các thứ đó truy tìm hiểu rõ biết chỉ là từ tâm, chẳng còn duyên trụ, nên nói CHẲNG NƯƠNG.
Kế, là cái trừ nương nơi cảnh giới điên đảo sinh ra tâm vọng tưởng cũng phải bỏ, nên nói ‘TẤT CẢ các niệm thuộc tưởng đều trừ’. Chỗ bỏ đã không thì cái hay bỏ cũng chẳng lập, rỗng không tịch tĩnh, mới gọi là Chỉ, nên nói CŨNG BỎ LUÔN TƯỞNG TRỪ.
Vì sao phải khiến năng trừ sở trừ tất cả tâm tưởng đều chẳng còn?
Giải thích : Vì tất cả pháp xưa nay không tưởng, nay muốn thuận với pháp tánh nên cần như thế.          
NIỆM NIỆM CHẲNG DIỆT, là chuyển thích thành[7] lý do pháp tánh không tướng. Thực là do tưởng không có tự tánh, cùng nó là không, nên không có tự thể sinh diệt có thể nắm bắt. Đây mới là sinh mà vô sinh. Thì diệt mà không có diệt. Như dương diệm, nước vốn tự khô.
Chánh văn :
Cũng chẳng được ngoài tâm niệm cảnh giới, sau lấy tâm trừ tâm. Tâm nếu tán loạn rong rủi thì phải nhiếp lại, trụ ở chánh niệm. Chánh niệm ấy là, phải biết chỉ là tâm, không có cảnh giới bên ngoài. Ngay tâm ấy cũng không có tự tướng, niệm niệm bất khả đắc.        
Giải thích :
‘CŨNG CHẲNG ĐƯỢC ngoài tâm niệm cảnh giới’ là, nếu ngoài tâm có thực cảnh, khi tâm duyên với cảnh này, đè nén khiến chẳng duyên không thể được, nên sau dùng tâm trừ nó. Nay ngoài tâm đã không có trần, tức sở thủ không tướng. Sở thủ không tướng nên năng thủ tự nhiên không thể sinh. Sao động đến phương tiện trừ của hậu tâm?[8]
‘TÂM NẾU TÁN LOẠN rong ruổi…’ là, mới đầu tu tập nhiều tán loạn, nên nhiếp lại khiến trụ vào chánh niệm. Vì sao chánh niệm mà nói ‘khiến trụ’. Vì duy tâm không có ngoại trần. Vọng cảnh đã không, duy tâm cũng tịch, nên nói ‘NGAY TÂM ẤY cũng không có tự tướng’.
Chánh văn :
Nếu khi rời chỗ ngồi, đi đứng tới lui với mọi hành tác, trong tất cả thời, thường nhớ nghĩ phương tiện tùy thuận quán xét.        
Giải thích :
Không phải chỉ khi ngồi mới thường tu pháp Chỉ này mà với tất cả thời và chỗ còn lại, trong các oai nghi thường tư duy phương tiện thuận với đạo lý pháp tánh bất động.
Trong phần Chỉ thành tựu định tướng nói sau có ba câu.
Chánh văn :
Tập lâu thuần thục thì tâm ấy được trụ. Do được trụ nên tâm dần dần sắc bén mà tùy thuận nhập được chân như tam muội, dẹp sâu phiền não, tín tâm tăng trưởng, chóng được bất thối.          
Giải thích :
‘TẬP LÂU …được trụ’, là tu Chỉ đã thành tựu.
‘DO ĐƯỢC TRỤ …’, là nhờ cái lực của Chỉ hộ tâm khiến nó sắc bén mà được định.
‘DẸP SÂU …’, là hàng phục hoặc nhập vị, là Tín mãn nhập Trụ, cũng là nói sơ về lợi ích của định.
Từ trên đến đây, là nói về hạng có thể nhập. Sau, nói về hạng không thể nhập.      
Chánh văn :
Chỉ trừ người nghi hoặc, không tin, phỉ báng, bị chướng nghiệp của trọng tội, ngã mạn, giải đãi, những hạng người như thế thì không thể vào.          
Giải thích :
Vì sáu loại chướng mà không thể nhập.
NGHI HOẶC, là đối với lý còn mù mờ.
KHÔNG TIN, là xiển đề.
PHỈ BÁNG, là ngoại đạo.
TRỌNG TỘI NGHIỆP CHƯỚNG, là bốn trọng nhân và năm loại ngũ nghịch.
NGÃ MẠN, là hạng thị ngã tự cao.
GIẢI ĐÃI, là phóng dật không chuyên cần.
Sáu loại này, cứ có một loại là không thể nhập.
Sau nói về công năng thù thắng của Chỉ. Có hai : Một, hay sinh nhất hạnh tam muội. Hai, hay sinh vô lượng tam muội.
Chánh văn :
Lại nữa, nương nơi tam muội này thì biết pháp giới nhất tướng, là pháp thân của tất cả chư Phật cùng với thân chúng sinh bình đẳng không hai, gọi là nhất hạnh tam muội. Phải biết chân như là nền tảng của tam muội. Nếu người chịu tu hành thì dần dần hay sinh vô lượng tam muội.          
Giải thích :
Trong phần sinh nhất hạnh tam muội có ba : 1/ Lập. 2/Hiển tướng của tam muội. 3/Hiển tên của tam muội.
NHẤT HẠNH TAM MUỘI là, kinh Văn Thù Bát Nhã nói : «Sao gọi là nhất hạnh tam muội? Phật nói: ‘Pháp giới nhất tướng hệ duyên pháp giới thì gọi là nhất hạnh ta muội’. Nhập nhất hạnh tam muội thì biết hết hằng sa pháp giới của chư Phật không có tướng sai biệt…». Vì tam muội của chân như hay sinh vô lượng các tam muội nên gọi là tam muội căn bản.
Trong phần ma sự sau có hai : Trước nói lược. Sau nói rộng. Trong phần lược cũng có hai : Trước, nói về chướng. Sau nói về pháp đối trị.
Chánh văn :
Với chúng sinh không đủ lực thiện căn thì bị các ma, ngoại đạo, quỉ thần hoặc loạn. Trong khi ngồi thiền hoặc hiện hình làm cho hoảng sợ, hoặc hiện nam nữ đoan chánh, đẳng tướng              
Giải thích :
MA, là thiên ma, đây nói là chướng ngại.
QUỈ, là quỉ phụ tràng.
THẦN, là tinh mị thần.
Ma quỉ thần như thế nhiễu loạn Phật pháp khiến vào tà đạo, nên gọi là NGOẠI ĐẠO. Ba loại đó hay biến làm ba loại ngũ trần phá hoại thiện tâm của người.
‘HIỆN HÌNH làm cho hoảng sợ’, là thị hiện thân đáng sợ khủng bố để làm mất ý chí của người tu.
‘HIỆN CÁC TƯỚNG nam nữ đoan chánh’, là hiện các hình tướng đáng yêu khiến người sinh nhiễm tâm.
ĐẲNG TƯỚNG, là hiện các tướng ngũ trần bình đẳng, không phải nghịch, không phải thuận làm động loạn tâm người.
Sau là pháp đối trị.
Chánh văn :
Phải niệm duy tâm, cảnh giới tự diệt, chẳng thể làm não loạn.              
Giải thích :
Tất cả cảnh giới chỉ là tự tâm, huống là những cảnh giới có được khi ngồi thiền, cho nên quán xét chỉ là tâm thì ma cảnh diệt theo, không thể nhiễu loạn. Vì chỉ là tâm, không phải là sở tri.[9] Đây là pháp trừ chung. Còn trị riêng thì với các ma, phải tụng Bát nhã Đại thừa và chú trị ma, mặc niệm mà tụng nó.
Quỉ phụ tràng, thì có khi như trạng thái trùng bọ đâm chích vào đầu mặt người. Có khi như thọc lét dưới hai nách người rồi bất ngờ ôm chặt lấy người. Có khi làm ra ngôn thuyết âm thanh huyên náo và làm thành các hình thú với nhiều tướng khác nhau đến não loạn hành giả. Những lúc như thế, nên nhắm mắt nhất tâm mà nói thế này ‘Ta nay đã biết ngươi. Ngươi là kẻ ăn lửa lớn, nuốt hương thâu lạp cát chi,[10] tà kiến, thích phá giới chủng trong Diêm Phù Đề. Ta nay trì giới trọn chẳng sợ ngươi’. Nếu là người xuất gia nên tụng giới luật. Nếu là người tại gia nên tụng Bồ tát giới bản. Nếu tụng Tam qui ngũ giới v.v… thì quỉ lại đi lùi, bò lổm ngổm mà ra.
Thần Tinh mị, đi săn trong 12 thời, hay biến ra các thứ hình sắc, hoặc biến thành tướng thiếu nam thiếu nữ, hoặc hình tượng lão túc, hoặc thân tướng đáng sợ v.v… Không phải một mà rất nhiều để não loạn hành giả. Muốn não loạn người, nó phải đến vào đúng cái lúc của nó. Nếu ở giờ dần mà đến thì phần nhiều là loài hổ hung tợn v.v… Nếu ở giờ mão mà đến thì phần nhiều là thỏ, nai v.v… Nếu là giờ sửu thì đa phần là loài trâu v.v... Hành giả thường dùng các thời này thì biết được thời đi săn của Tinh mị, nói các danh tự này mà quở trách thì sẽ trừ diệt. Các thứ này đều đã được nói rộng trong Thiền kinh và Chỉ Quán của thiền sư Khải.
Trong phần nói rộng về ma sự sau có hai. Trước là hiển ma sự. Sau, nói pháp đối trị. Trong phần trước có 10 sự thành 5 đối. Một là hiện hình thuyết pháp. Hai, được thần thông khởi biện luận. Ba, khởi hoặc tạo nghiệp. Bốn, Thọ định được thiền. Năm, ăn uống dung mạo biến khác.              
Chánh văn :
Hoặc hiện hình chư Thiên, hình Bồ tát, cũng tạo ra hình Như Lai với đầy đủ tướng tốt.
Hoặc thuyết Đà la ni, hoặc thuyết bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ. Hoặc thuyết bình đẳng, không, vô tướng vô nguyện, không oán, không thân, không nhân, không quả, rốt ráo không tịch là chân như niết bàn.
Hoặc khiến người biết túc mạng và những việc đã qua, cũng biết được những việc chưa đến, được tha tâm thông, biện tài vô ngại, hay khiến chúng sinh tham trước danh lợi thế gian.
Lại khiến người chợt giận chợt mừng, tánh tình bất thường. Hoặc nhiều thương yêu, ngủ nhiều, bệnh nhiều, tâm sinh giải đãi. Hoặc chợt khởi tinh tấn, sau lại bỏ phế, sinh lòng chẳng tin, nhiều nghi ngờ, nghĩ ngợi, lo toan. Hoặc bỏ thắng hạnh mà tu các tạp nghiệp. Hoặc bị pháp thế gian ràng buộc lôi kéo. Cũng hay khiến người được vài phần như tam muội. Đều là sở đắc của ngoại đạo. Chẳng phải là tam muội chân thật.
Cũng có khi khiến người, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày trụ ở trong định, tự nhiên được ăn uống các thứ thơm ngon, thân tâm vui thích, chẳng đói, chẳng khác, khiến người ái trước. Hoặc khiến người ăn không có hạn định, lúc nhiều lúc ít, nhan sắc đổi khác                          
Giải thích :
Như văn kinh nói thì có thể thấy.
Hỏi : Như việc hiện hình Phật và Bồ tát thuyết thâm pháp và thiện căn đời trước khai phát, làm sao có thể phân biệt chánh tà.
Đáp : Việc này thật khó. Nếu do ma làm mà cho là tướng thiện rồi đem tâm thủ trước thì đọa vào lưới tà. Còn thật là thiện căn khai phát mà cho là ma sự rồi tâm sinh sợ hãi và xả bỏ công phu thì thiện căn thối thất. Cho nên tà chánh thật khó phân biệt. Nay y vào sự tương truyền của người xưa, dùng tạm ba loại pháp để nghiệm nó : 1/Dùng định lực để kiểm nghiệm. 2/Dựa vào pháp mình đang tu mà trị. 3/Dùng trí tuệ quán xét. Như kinh nói : «Muốn biết vàng thật, có ba pháp thử nó là đốt, đánh và mài. Hành nhân cũng thế, khó có thể nhận biết. Nếu muốn biết cũng cần 3 sự kiểm nghiệm. Một là phải cùng cộng sự. Cộng sự không biết thì phải cùng với chỗ lâu. Chỗ lâu không biết thì dùng trí tuệ quán xét ». Nay y nơi ý này mà nghiệm chánh tà. Khi cảnh tướng trong định hiển phát, chánh tà khó biết thì phải thâm nhập định tâm, ở trong cảnh ấy không thủ không xả, chỉ trụ nơi cái định bình đẳng. Nếu là chỗ phát của thiện căn thì định lực càng sâu, thiện căn càng phát. Nếu do ma làm thì chẳng lâu sau, cảnh giới ấy tự diệt.    
1. Dùng định lực để kiểm nghiệm : Khi đang trong định, nếu cảnh ấy xuất hiện mà chánh tà khó phân thì phải thâm nhập định tâm, ở trong cảnh ấy không thủ không xả, chỉ giữ lấy định bình đẳng. Nếu đúng là do thiện căn khai phát thì định lực càng sâu, thiện căn càng phát. Nếu là ma sự thì chẳng bao lâu sau, cảnh ấy tự diệt.    
2. Dựa vào pháp tu chính mà trị : Như pháp tu chính của mình là thiền quán bất tịnh thì nơi pháp quán bất tịnh ấy mà nghiệm. Nếu tu như thế mà cảnh giới kia càng rõ ràng thì không phải là ngụy. Nếu dùng pháp đang tu để trị, mà cảnh ấy dần dần hoại diệt thì phải biết cảnh ấy là tà.  
3. Dùng trí tuệ quán xét : Quán cái tướng phát ra ấy và truy nghiệm căn nguyên của nó. Chẳng thấy chỗ sinh, thấu rõ không tịch, tâm chẳng trụ trước, tà sẽ tự diệt, chánh sẽ tự hiển. Như đốt vàng thật sắc nó càng sáng. Nếu là vàng giả thì nó sẽ tự tiêu. Ở đây, phải biết chân ngụy cũng như vậy. Định, giống như pháp mài giũa. Y vào pháp tu chính giống như pháp đánh. Dùng trí tuệ quán xét thì giống như pháp đốt. Dùng ba thứ đó để nghiệm chánh tà thì có thể biết được.              
Chánh văn :
Bởi các nghĩa ấy, hành giả nên dùng trí tuệ quán xét, chớ khiến tâm này rơi vào lưới tà. Phải chuyên cần chánh niệm, chẳng nắm giữ chẳng dính mắc, thì hay xa lìa các nghiệp chướng.
Giải thích :
Đây là phần đối trị.
DÙNG TRÍ TUỆ QUÁN XÉT, là y nơi trí tuệ từng phần có được mà quán các ma sự rồi xét mà trị nó. Nếu chẳng quán xét thì đọa vào đường tà, nên nói ‘CHỚ KHIẾN TÂM này rơi vào lưới tà’. Trong ba thứ dùng để nghiệm trên, nó là pháp dùng trí tuệ để nghiệm.
‘PHẢI CHUYÊN CẦN chánh niệm …’, là nói về hai pháp trị trước. Vì môn Chỉ của Đại thừa, chỉ tu lý định, không có hướng khác, nên đầu tiên định nghiên[11] đều y nơi pháp tu chính, không có pháp khác. Sở dĩ hợp lại mà nói là vì chỉ y nơi môn Chỉ của mình.
CHẲNG NẮM GIỮ CHẲNG DÍNH MẮC thì tà chẳng phạm chánh, tự nhiên lùi tan. Nếu nắm giữ dính mắc thì bới chánh nhập tà. Nếu không nắm giữ dính mắcthì nhân tà hiển chánh. Cho nên phân chánh tà chủ yếu là ở dính mắc hay không. Không dính mắcthì không chướng nào mà chẳng lìa, nên nói ‘XA LÌA các nghiệp chướng’. Luận Đại Trí Độ nói : «Trừ thực tướng các pháp, tất cả các thứ còn lại đều là ma sự». Kệ nói : «Nếu phân biệt nhớ nghĩ, đó chính là lưới ma, bất động không phân biệt, đó chính là pháp ấn». Chính là nói chỗ này.
Trong phần giản trạch chân khác ngụy có hai : Trước, nêu hai thứ định trong ngoài để phân biệt chánh và tà. Sau, là trưng hai thứ định thuộc lý sự để làm rõ chân và ngụy. Trong phần đầu, nói về tà định trước.      
Chánh văn :
Nên biết, tam muội của ngoại đạo, đều không lìa tâm kiến, ái, ngã mạn, tham trước danh lợi và sự cung kính ở thế gian.
Giải thích :
Các kiết sử ngã ái, ngã mạn và ngã kiến thường tương ưng với nhau.
‘THAM TRƯỚC danh lợi …’ là, trong thì dính vào tà định, ngoài thì tham danh lợi. Như vậy, tất cả thiền định nào không thể làm tổn giảm phiền não thì đều chẳng nên y cứ.  
Chánh văn :
CHÂN NHƯ TAM MUỘI thì chẳng trụ tướng kiến, chẳng trụ tướng đắc, cho đến xuất định cũng không giải đãi, kiêu mạn, phiền não đã có dần dần nhạt mỏng.  
Giải thích :
Trong khi thiền định không đắm vị. Vì mất tâm nên CHẲNG TRỤ TƯỚNG KIẾN. Vì mất cảnh nên CHẲNG TRỤ TƯỚNG ĐẮC. Xuất định cũng không cậy vào định ấy mà kiêu mạn. Tham sân si mỏng dần chính là tướng chánh định, nên nói ‘Chân như … nhạt mỏng’.
Trong phần lý sự sau, trước nói về lý định.                            
Chánh văn :
Nếu các phàm phu chẳng tập pháp tam muội ấy mà tự cho là nhập chủng tánh Như Lai thì không có việc này.
Giải thích :
Tu Đại thừa Bồ tát hạnh thì phải y cứ nơi chân như tam muội này mới nhập chủng tánh thuộc vị bất thối. Ngoài tam muội này, hoàn toàn không có đường để vào, nên nói ‘NẾU CÁC PHÀM PHU …’.
CHỦNG TÁNH, là từ Thập địa trở lên, ứng theo vị bất thối mà nói.
Sau, nói về sự định.
Chánh văn :
Vì tu các thiền của tam muội của thế gian thì khởi nhiều tham trước, nương nơi ngã kiến, ràng buộc trong tam giới, chung cùng với ngoại đạo. Nếu không có sự giúp đỡ của thiện tri thức thì khởi cái kiến của ngoại đạo vậy.  
Giải thích :
Các định ở thế gian như tứ thiền tứ định v.v… cùng với bất tịnh an ban v.v… chỉ là cái định do thủ cảnh tướng, đều gọi là thế gian định. Vì đắm vị cảnh định nên không lìa ngã, nên nói CHUNG CÙNG VỚI NGOẠI ĐẠO.
CHUNG CÙNG là, đồng được các sự định này. Vì chung cùng nên nếu được lực trợ niệm của thiện tri thức thì có thể vào được Phật pháp. Nếu không có thiện tri thức thì vào đường tà.
Sau là chỉ dạy lợi ích. Lợi ích cho đời sau là vô lượng vô biên. Lợi ích trong hiện đời lược có 10 thứ. Trong đó có hai : Trước là tổng nêu. Sau, giải thích chi tiết.
Chánh văn :
Lại nữa, tinh cần chuyên tâm tu học tam muội ấy thì hiện đời được mười thứ lợi ích. Thế nào là mười?
1. Thường được sự hộ niệm của mười phương chư Phật và Bồ tát.  
Giải thích :
Từ câu 1 trở đi, là giải thích chi tiết. Đây là lợi ích được bạn lành nhiếp hộ. Vì tu chân như tam muội nên chư Phật Bồ tát pháp ứng hộ niệm khiến được dũng mãnh, thắng tiến không còn thối chuyển.
Sau là lợi ích lìa bốn chướng. Trong đó hai thứ đầu là ly lìa hai chướng ác duyên.  
Chánh văn :
2. Không bị các ma ác quỉ làm cho hoảng sợ.
3. Không bị 95 thứ ngoại đạo quỉ thần hoặc loạn.  
Giải thích :
Trước là thiên ma không hiện hình. Sau là lìa tà hoặc của ngoại đạo.
Hai thứ sau là lìa nội hoặc nghiệp chướng.
Chánh văn :
4. Xa lìa sự phỉ báng thậm thâm. Trọng tội và nghiệp chướng dần dần nhạt mỏng.
5. Diệt hết nghi ngờ và giác quán xấu ác.  
Giải thích :
Câu 4 là lìa ác nghiệp. Câu 5 là diệt hoặc chướng.
Trong phần lìa ác nghiệp, lìa phỉ báng v.v… không khởi nghiệp mới.
‘TRỌNG TỘI … nhạt mỏng’, là nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ.
Sau là ngũ hạnh thành kiên cố.
Chánh văn :
6. Đối với cảnh giới của Như Lai, lòng tin được tăng trưởng.
7. Xa lìa buồn rấu hối hận. Ở trong sinh tử mà dũng mãnh, không khiếp sợ.
8. Tâm được nhu hòa, xả bỏ kiêu mạn, không bị người khác làm cho phiền não.
9. Tuy chưa được định thì trong tất cả thời, tất cả chỗ, cũng giảm bớt được phiền não, không còn ưa thích thế gian.
10. Nếu được tam muội thì không bị ngoại duyên và tất cả âm thanh làm cho kinh động.
Giải thích :
Câu 6, là lý tín tăng.
Câu 7, ở nơi nhiễm cũng chẳng sợ.        
Câu 8, không bị các duyên hoại diệt.
Câu 9, không đắm vị ngon ở thế gian.
Câu 10, được thiền định sâu.
Tu môn chỉ xong.
Trong phần Tu quán sau có ba : 1/Ý tu Quán. 2/Nói về tướng Quán. 3/Kết phần hạn của Quán.
Chánh văn :
Lại nữa, nếu chỉ tu Chỉ thì tâm bị chìm lặng, hoặc khởi giải đãi không thích các việc thiện, xa lìa đại bi nên phải tu Quán.
Giải thích :
KHÔNG THÍCH CÁC VIỆC THIỆN, là mất tự lợi.
XA LÌA ĐẠI BI, là mất lợi tha.
Sau nói về tướng Quán. Có bốn :  
1/ Pháp tướng quán : Trị cái lỗi khiến mất tự lợi.
2/ Đại bi quán : Là trị cái lỗi mất lợi tha.
3/ Đại nguyện quán : Thành tựu hạnh đại bi trước.
4/ Tinh tấn quán : Thành tựu hạnh tự lợi trước.      
Chánh văn :
Tu tập Quán là, nên quán tất cả pháp hữu vi ở thế gian không có gì là lâu bền, biên hoại trong giây lát. Tất cả tâm hành, niệm niệm sinh diệt, vì vậy nên khổ. Nên quán các pháp niệm được ở quá khứ chợt thoáng như giấc mộng. Nên quán các pháp niệm được ở hiện tại giống như ánh chớp. Nên quán các pháp niệm được ở vị lai giống như mây bất chợt mà khởi.
Giải thích :
‘QUÁN CÁC PHÁP … biến hoại trong giây lát’, là quán vô thường.
‘TẤT CẢ TÂM HÀNH … nên khổ’, là quán khổ.
‘QUÁN CÁC PHÁP … như giấcmộng’, là quán vô ngã. Trong đó, quá khứ không thể tánh, khó nắm bắt. Hiện tại sát na chẳng trụ. Tương lai vốn không tích tụ, chỉ do duyên tập mà có, không từ mười phương đến.
Chánh văn :
Nên quán ở thế gian, thứ gì có thân thảy đều bất tịnh, mọi thứ đều ô uế, không một thứ gì đáng ưa thích.
Giải thích :
Đây là quán bất tịnh.
4 Quán đó trừ 4 cái điên đảo thường, lạc, ngã, tịnh của thế gian.
Chánh văn :
Như vậy, phải nhớ tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay đều nhơn nơi sự huân tập vô minh khiến tâm sinh diệt, đã thọ tất cả vạn khổ của thân tâm. Hiện tại thì có vô lượng bức bách. Vị lai, cái khổ cũng không hạn định. Khó xả khó lìa mà không giác biết. Chúng sinh như thế rất đáng thương xót.  
Giải thích :
Đây là Đại bi quán. Trước là quán cái trọng khổ trong ba đời của chúng sinh. Kế là không có tâm chán bỏ nên khổ không có giới hạn. Sau, là phát sâu tâm từ.
Chánh văn :
Suy nghĩ vậy rồi thì nên dũng mãnh lập đại thệ nguyện : Nguyện cho tâm tôi lìa phân biệt, trải khắp mười phương tu hành tất cả các thiện công đức. Tận đến vị lai, dùng vô lượng phương tiện cứu vớt và làm vơi đi tất cả khổ não cho chúng sinh, khiến họ được cái lạc bậc nhất của niết bàn.    
Giải thích :
Đây là phần Đại nguyện quán. Trong đó, nhân lòng bi mà lập đại nguyện. Có 4 câu :
1/ Hiển cái thể.
2/ Nói về tâm trường viễn.
3/ Nói về tâm quảng đại.
4/ Nói về tâm đệ nhất.  
Chánh văn :
Do khởi nguyện như vậy nên trong tất cả thời, tất cả chỗ, tùy sức kham nhẫn của mình mà giữ các điều thiện, chẳng bỏ việc tu học, tâm không giải đãi. Chỉ trừ thời tọa thiền là chuyên niệm nơi Chỉ, còn tất cả thời còn lại đều phải quán cái gì nên làm, cái gì không nên làm.      
Giải thích :
Trong phần kết, những gì thuận với lý thì nên làm, nghịch với lý thì không nên làm. Phần tu Chỉ Quán xong.
Sau, nói về song vận. Từ trên đến đây, vì mới tập, chưa thuần nên động tịnh tu riêng. Nay định tuệ tu thành, nên cả hai cùng hành. Trong đó có ba : Trước là tổng nêu. Kế, là nói riêng. Sau là tổng kết.
Chánh văn :
Lúc đi, lúc đứng, lúc nằm, lúc dậy đều nên cùng hành Chỉ Quán. Nghĩa là, tuy niệm các pháp tự tánh chẳng sinh mà cũng tức là niệm nhân duyên hòa hợp, nghiệp thiện ác và quả báo khổ vui chẳng mất, chẳng hoại. Tuy niệm quả báo nhân duyên thiện ác mà cũng tức là niệm tánh bất khả đắc.        
Giải thích :
TỰ TÁNH CHẲNG SINH, là ứng vào nghĩa phi hữu để nói Chỉ.
NGHIỆP QUẢ KHÔNG MẤT, là ứng vào nghĩa phi vô để nói Quán.
Hai thứ này không hai, nên nói TỨC. Đây là thuận với mé chân bất động mà kiến lập các pháp. Vì phi hữu tức là phi vô, nên có thể không bỏ Chỉ mà tu Quán.
‘TUY NIỆM QUẢ BÁO …nhân duyên’, là nói ‘ngay Quán là Chỉ’. Vì thuận với giả danh không hoại mà nói thật tướng các pháp. Vì phi vô tức là phi hữu, nên có thể không bỏ Quán mà tu Chỉ. Khi nói thì có trước sau, song khi hành thì tâm viên dung không hai. Tánh của cái không hai này chính là thật tánh. Lý vị là ở đây. Có thể suy nghĩ lấy.      
Chánh văn :
Tu Chỉ là để đối trị tâm trụ trước thế gian của phàm phu, xả bỏ cái thấy khiếp nhược của Nhị thừa.        
Giải thích :
Tu Chỉ trị 2 lỗi : Cái chính là trị hai cái chấp nhân pháp của phàm phu tham thích thế gian. Sau là trị luôn cái chấp pháp ngũ ấm thấy khổ dừng sợ của Nhị thừa. Vì môn Chỉ vô sinh trừ các thứ chấp này.
Chánh văn :
Tu Quán là để đối trị cái lỗi tâm hẹp yếu, không khởi đại bi của Nhị thừa, xa lìa việc không tu thiện căn của phàm phu.          
Giải thích :
Tu Quán cũng để trị hai lỗi : Cái chính là trị tâm hẹp hòi của Nhị thừa, khiến họ quán khắp chúng sinh mà khởi tâm đại bi. Sau, trị luôn cái tâm giải đãi của phàm phu, khiến họ quán vô thường, khuyến tu thiện hạnh.
Chánh văn :
Do nghĩa như vậy, nên 2 môn Chỉ Quán tương trợ nhau mà thành, không tách lìa nhau. Nếu Chỉ Quán không đủ thì không thể nhập đạo bồ đề.          
Giải thích :
TƯƠNG TRỢ NHAU …, như kẻ phàm phu không gì không thích thế gian thì không do đâu mà khuyến tu thiện hạnh. Với hàng Nhị thừa, không gì không khiếp sợ sinh tử nên không do đâu khởi đại bi. Cho nên hai hạnh không lìa nhau.
‘NẾU CHỈ QUÁN … đạo bồ đề’, là Chỉ Quán cần nhau. Như hai cánh của chim, hai bánh xe của xe. Hai bánh không đủ thì không có công vận chuyển. Một cánh nếu mất thì không có thế bay trong hư không, nên nói ‘Không thể nhập đạo bồ đề.
Sau, nói về phương pháp phòng thối tâm. Trong đó có hai : Trước, nói về người có thể thối thất. Sau, nói về pháp phòng thối thất. Trong phần trước cũng có hai : Trước là nêu căn cơ hạ liệt. Sau, nêu xứ thích thành.
Chánh văn :
Lại nữa, chúng sinh mới học pháp này, muốn cầu chánh tín, song tâm còn khiếp nhược, do sợ trú ở thế giới Ta bà này chẳng gặp được Phật thường xuyên để thân cận cúng dường, sợ tín tâm khó có thể thành tựu, ý muốn thối lui …
Giải thích :
Vì nội tâm đã yếu, ngoài lại thiếu thắng duyên, tín hạnh khó thành, nên sẽ thối thất.
Trong phần pháp phòng thối thất sau có hai : Trước là nêu chung Thánh ý. Sau, là dẫn kinh để chứng minh.
Chánh văn :
Thì phải biết, Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp hộ tín tâm. Đó là dùng nhân duyên Ý CHUYÊN NIỆM PHẬT, tùy nguyện được sinh tha phương Phật độ, thường thấy chư Phật, lìa hẳn ác đạo.              
Giải thích :
Trong phần nêu Thánh ý này cũng có hai : Trước là nêu phương tiện thiện xảo của chư Thánh. Sau, giải thích tướng thiện xảo hiện.
Chánh văn :
Như trong Tudala nói: «Nếu người chuyên niệm đức A Di Đà ở thế giới Tây phương cực lạc, thiện căn tu được đều hồi hướng nguyện cầu sinh về thế giới ấy thì liền được vãng sinh, thường thấy được Phật, rốt cuộc không còn thối thất. Nếu quán pháp thân chân như của Phật đó, thường chuyên cần tu tập, cuối cùng sinh ra trụ trong chánh định.                
Giải thích :
Trong phần dẫn kinh chứng minh có hai :
‘NHƯ TRONG … vãng sinh’ : Dẫn kinh chứng minh.
‘THƯỜNG THẤY CHƯ … chánh định’ : Giải thích văn kinh.
NẾU QUÁN PHÁP THÂN … : Người vãng sinh có ba vị :
1/ Như khi hoa sen chưa nở, tín hạnh chưa đầy. Nói bất thối, chỉ là vì ở chỗ không có duyên thối, nên gọi là bất thối.
2/ Tín vị đầy đủ trở đi, hoa nở thấy Phật, vào vị Thập trụ, được thấy pháp thân ít phần, trụ vị chánh định.
3/ Tam hiền vị mãn, vào Sơ địa trở đi, chứng pháp thân trùm khắp, sinh vào vô biên Phật độ, như Phật thọ ký cho Bồ tát Long Thọ trụ Sơ địa sinh Tịnh độ v.v….
CUỐI CÙNG SINH RA …, là chỉ cho hai vị sau
Phân Lợi Ích Và Khuyến Tu có ba : Trước là tổng kết phần trên.          
PHẦN KHUYẾN TU VÀ LỢI ÍCH
Chánh văn :
Đã nói về Tu Hành Tín Tâm, giờ nói về Lợi Ích Và Khuyến Tu. Như vậy tôi đã nói toàn bộ về Đại thừa, bí tàng của chư Phật.
Giải thích :
Tổng kết phần trên.
Sau, nói về sự tổn hại và lợi ích của việc tin và hủy báng pháp này. Có hai :
1/ Phúc đức thù thắng của việc tin nhận.
2/ Tội trọng của việc phỉ báng.
Trong phần trước, đầu tiên là ứng vào tam tuệ, tổng nêu lợi ích của nó.      
Chánh văn :
Nếu có chúng sinh muốn vào cảnh giới thậm thâm của Như Lai, được sinh chánh tín, xa lìa phỉ báng, nhập Đại thừa đạo thì phải trì luận này, tư lường, tu tập, cuối cùng có thể đến được đạo vô thượng.
Giải thích :
Ứng vào tam tuệ, tổng nêu lợi ích của nó.
Chánh văn :
Nếu người nghe pháp này rồi mà không sinh khiếp nhược, phải biết người ấy nhất định tiếp nối chủng Phật, được chư Phật thọ ký.  
Giải thích :
NẾU NGƯỜI NGHE …, là nói tướng lợi ích của Văn tuệ.
Chánh văn :
Nếu có người giáo hóa chúng sinh đầy cả Tam thiên đại thiên thế giới khiến họ hành Thập thiện, không bằng có người trong khoảng một bữa ăn suy nghĩ chín chắn pháp này. Công đức của người này vượt hơn người trước chẳng thể ví dụ.  
Giải thích :
Tướng lợi ích của Tư tuệ.
Chánh văn :
Lại nữa, nếu người thọ trì luận này, quán sát tu hành một ngày một đêm thì có vô lượng vô biên công đức chẳng thể nói được. Giả như tất cả chư Phật ở mười phương đều tán thán công đức của người này trong vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp cũng chẳng thể hết. Vì sao? Vì công đức pháp tánh thì vô tận. Công đức của người ấy cũng lại như thế, không có bờ mé.    
Giải thích :
Tướng lợi ích của Tu tuệ.
Sau nói về tội hủy báng. Có bốn câu :
Chánh văn :
Có chúng sinh nào đối với luận này, hủy báng không tin, sẽ bị tội báo qua vô lượng kiếp, chịu vô vàn khổ não.    
Giải thích :
1/ Hủy báng sẽ thành tội trọng.
Chánh văn :
Cho nên, chúng sinh chỉ nên kính tin chẳng nên hủy báng.  
Giải thích :
2/ Khuyên răn không nên hủy báng.
Chánh văn :
Vì tự hại mình, hại luôn cả người, đoạn tuyệt tất cả hạt giống Tam bảo.    
Giải thích :
3/ Giải thích ý của tội trọng
Chánh văn :
Bởi tất cả Như Lai đều y nơi pháp này mà được niết bàn, tất cả Bồ tát đều nhân nơi đây mà nhập Phật trí.    
Giải thích :
4/ Giải thích nghĩa đoạn dứt hạt giống Tam bảo. Trong đó có hai câu :
. Ứng vào quả : Người y đó mà được niết bàn.  
. Ứng vào nhân : Người y đó mà được bồ đề.
Bồ đề và niết bàn chính là Pháp bảo. Phật và Tăng thì có thể tự hiểu.
Do hủy báng thì trái với đó nên đọan dứt hạt giống Tam bảo.
Chánh văn :
Phải biết, Bồ tát quá khứ đã y nơi pháp này mà được thành tịnh tín. Bồ tát hiện tại hiện y nơi pháp này mà được thành tịnh tín. Bố tát vị lai sẽ y nơi pháp này mà được thành tịnh tín. Cho nên, chúng sinh cần nên tu học.    
Giải thích :
Bồ tát ba đời đồng hành pháp này, hoàn toàn không có đường nào khác, nên cần khuyên tu học.
Phần Chánh tông đã xong.                                                                                 
Chánh văn :
Nghĩa lý thậm thâm quảng đại của chư Phật.
Nay tôi tùy thuận tổng trì thuyết.
Hồi hướng công đức như pháp tánh này.
Lợi ích khắp tất cả cõi giới chúng sinh.      
Giải thích :
Đây là bài kệ tụng trong phần Lưu thông.
Hai câu đầu kết lại những gì đã nói. Trong đó, câu trước là kết nghĩa, câu sau là kết văn.
Hai câu sau là lợi ích của hồi hướng. Câu trước, là công đức rộng lớn. Câu sau, là thấm nhuần xa khắp.    
 
 

[1] (41)

[2] (42, 4)

[3] (42,21)

[4] (44)

[5] (46)

[6] (48)

[7] Cuối (48)

[8] (49)

[9] Ý nói : Tất cả những thứ đó đều từ vọng tưởng tập khí sinh ra, không phải thật có cảnh bị biết bên ngoài, nên khi quán đúng bản chất của nó “Tất cả chỉ là tâm” thì lập tức nó diệt mất.

[10] (49)

[11] (50)