Đại thừa khởi tín luận nghĩa ký (Hiền Thủ)
ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (4)
Bao gồm các phần : GIẢI THÍCH - 6 hiễm tâm - nghĩa huân tập.
31/03/2017
Quyển 4
PHẦN GIẢI THÍCH (tiếp theo)
Sau, là hiển lại thể tướng mà nhân duyên y cứ. Trong đó có hai. Có hai : Trước, lược nói về duyên khởi thậm thâm. Sau, hiển rộng nghĩa duyên khởi sai biệt. Trong phần trước, cũng có hai : Trước là tán thán thậm thâm. Sau, là giải thích lý do.
Chánh văn :
Y nơi vô minh huân tập mà thức khởi.
Giải thích :
Đây là lặp lại phần y nơi căn bản vô minh khởi tĩnh tâm thành nghiệp thức v.v…
Sau là tán thán sự thậm thâm. Trước là nói phàm phu chẳng có phần. Kế, nói Bồ tát từng phần biết. Sau, nói chỉ Phật mới rõ tận cùng.
Chánh văn :
Chẳng phải phàm phu có thể biết, cũng chẳng phải là chỗ giác của Nhị thừa .
Giải thích :
Vì Nhị thừa chỉ giác tứ trụ, chẳng liễu vô minh, nên chỗ mà vô minh khởi ra thức chẳng phải là cảnh giới của các vị.
Chánh văn :
Y nơi Bồ tát từ sơ chánh tín phát tâm quán sát, nếu chứng pháp thân thì biết được ít phần biết. Cho đến địa vị rốt ráo của Bồ tát cũng chẳng thể biết hết, chỉ có Phật là thấu được tận cùng.
Giải thích :
‘Bồ tát từ sơ chánh tín’, là vị đầu của Thập tín, khi bắt đầu phát tâm, liền quán tự tánh của bản thức, là cái thể của nhân quả duyên khởi mà được thành chánh tín. Nhiếp Luận nói : «Ứng vào bản thức mà nói : Bồ tát sơ khởi trước nên quán nhân duyên như thật của các pháp» là nói chỗ này. Với địa vị Tam hiền, là chỉ cho tỷ quán, nên nói ‘quán sát’. Bồ tát đăng địa chứng nó mà chưa cùng, nên nói ‘ít phần’, vì mới chỉ giác được tướng trụ, chưa giác được tướng sinh. Như Lai tứ tướng đều liễu, vì được cùng tột nguồn tâm.
Sau, giải thích lý do thậm thâm.
Chánh văn :
Vì cớ sao?
Giải thích :
Ý muốn hỏi: Diệu lý duyên khởi quán thông phàm thánh, vì sao nói thấy người chỉ ở quả?[1]
Đáp : Trước, là vì tịnh mà thường nhiễm. Kế, vì nhiễm mà thường tịnh. Sau, kết luận khó lường, chỉ Phật mới biết. Trong phần trước cũng có ba.
Chánh văn :
Tâm này từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh mà có vô minh, bị vô minh làm nhiễm, có nhiễm tâm ấy.
Giải thích :
Trước, nói về thể duyên khởi, là nhân. Kế, nói nguyên do làm phát duyên khởi, là duyên. Sau, hiển tướng duyên khởi, là không nhiễm mà nhiễm.
Chánh văn :
Tuy có nhiễm tâm mà thường hằng bất biến, cho nên nghĩa này chỉ Phật mới biết.
Giải thích :
‘Tuy có nhiễm tâm …’, là giải thích nghĩa duyên khởi thậm thâm, là nhiễm mà không nhiễm. Kinh Thắng Man nói: “Tự tánh thanh tịnh tâm khó có thể biết thấu. Tâm ấy bị phiền não làm nhiễm cũng khó biết thấu … chỉ có Phật mới biết”. Kinh Lăng Già cũng nói đồng với đây: “Như Lai tạng là tướng thanh tịnh, khách trần phiền não cấu nhiễm chẳng tịnh …”, sau đó kết rằng: “Nay ta cùng với ngươi và các Bồ tát trí giả thậm thâm mới có thể liễu biệt”.
Sau là hiển tướng duyên khởi sai biệt. Có hai : Trước là hiển thể và tướng duyên khởi. Sau, giải thích lại. Trong phần trước cũng có ba. Trước là giải thích nghĩa bất biến.
Chánh văn :
Đó là tâm tánh thường vô niệm, nên nói ‘bất biến’.
Giải thích :
Dù toàn thể động mà xưa nay vốn tĩnh, nên nói thường vô niệm, là hiển cái nhân, đó là thể của duyên khởi.
Sau là hiển nguyên do vô minh duyên khởi.
Chánh văn :
Vì chẳng đạt được nhất pháp giới, nên tâm chẳng tương ưng, hốt nhiên niệm khởi, gọi là vô minh.
Giải thích :
Đây là giải thích do đâu vô minh khởi được. Vì chẳng rõ một nghĩa chân như bình đẳng, nên ‘tâm chẳng tương ưng, hốt nhiên niệm động, gọi là vô minh’, là hiển căn bản vô minh tối cực vi tế, chưa có năng, sở, vương, số sai biệt.[2] Vì là hoặc của tâm nên nói ‘chẳng tương ưng’, chẳng phải đồng với tâm vương tâm sở tương ưng.
Tuy vô minh này là nguồn của nhiễm pháp, tối cực vi tế, hoàn toàn không có nhiễm pháp có thể làm gốc này,[3] nên nói ‘hốt nhiên niệm khởi’. Du Già Bản Nghiệp nói: “Trước tứ trụ địa, hoàn toàn không có pháp khởi, nên gọi là vô thủy vô minh trụ địa”. Đó là minh cùng với vô minh không có sai biệt. Pháp hữu vi lấy việc ‘mới tập’ làm nền tảng, nên nói ‘vô thủy’.[4] Chính là nghĩa ‘hốt nhiên’ của luận này. Đây là ứng vào môn thô và tế nương nhau mà nói là không có trước, cũng nói là hốt nhiên. Chẳng ứng vào thời tiết mà nói là ‘hốt nhiên’. Vì khởi không có cái đầu tiên.
‘Nhiễm tâm’, là câu “Có nhiễm tâm ấy …” nói về tướng duyên khởi ở phần sau. Trong đó có hai : Trước hỏi, sau giải thích. Trong phần giải thích, lục nhiễm chính là ý thức và 5 loại ý trên. Trước, chỉ nói thứ lớp nghĩa ‘y nhân duyên sinh khởi’ nên nói từ tế đến thô. Nay, muốn nói về thứ lớp trị và đoạn, nên nói từ thô đến tế. Trong lục nhiễm, mỗi nhiễm đều có hai : Trước là nói về chướng. Sau, nói đến việc đối trị.
Chánh văn :
Nhiễm tâm có sáu loại. Thế nào là sáu?
1. CHẤP TƯƠNG ƯNG NHIỄM.
Giải thích :
‘Chấp tương ưng nhiễm’, là chấp thủ tướng và kế danh tự tướng trong phần lục thô, cũng là nghĩa phiền não kiến và ái tăng trưởng của ý thức, cũng là tướng phân biệt chấp trước thô trong tứ tướng trên. Chỉ là thô tâm chấp ngoại cùng với cảnh tương ưng, làm bẩn tịnh hạnh, nên nói ‘nhiễm tâm’.
Chánh văn :
Địa vị giải thoát của Nhị thừa và Tín tương ưng xa lìa.
Giải thích :
Nếu là hàng Nhị thừa thì đến địa vị vô học, kiến và tu phiền não rốt ráo ly.
‘Tín tương ưng’, là thập giải trở đi. Tín căn thành tựu không có thối thất, gọi là tín tương ưng. Địa luận nói: “Địa tiền gọi chung là Bồ tát tín hạnh địa”. Luận Vô Trước nói đồng với đó. Bồ tát này được nhân không, kiến và tu phiền não không hiện hành, nên nói ‘xa lìa’, không phải ứng vào tùy miên mà nói, vì lưu hoặc vậy.
Nhiếp Luận nói: “Nếu chẳng đoạn thượng tâm thì chẳng khác phàm phu. Nếu chẳng lưu chủng tử thì chẳng khác Nhị thừa” Lại, Ý lưu hoặc thứ hai là vì tự và tha.[5] Đây là ứng vào Chung giáo mà nói.
Nếu ứng vào Thủy giáo, thì từ Sơ địa trở đi mới nói lưu hoặc, như các luận khác đã nói. Nay Bồ tát nói đây, không chỉ đoạn nhân chấp của tứ trụ địa mà cũng từng phần đoạn vô minh trụ địa. Văn sau của luận này nói: “Chẳng rõ nghĩa nhất pháp giới, là từ tín tương ưng địa quán xét học đoạn…”. Nay, chỉ là hiển nhân ngã thô chấp, chẳng luận về cái kia.
Chánh văn :
2. BẤT ĐOẠN TƯƠNG ƯNG NHIỄM, y nơi địa vị Tín tương ưng dùng phương tiện tu học, dần dần có thể xả, được Tịnh tâm địa thì rốt ráo lìa.
Giải thích :
‘Bất đoạn tương ưng’, là tương tục thức trong ngũ ý, tương tục tướng trong lục thô. Chỉ là pháp chấp tương tục sinh, sinh khởi chẳng dứt. Chẳng dứt, nên có tên là tương tục. Từ Thập giải trở đi, tu Duy thức quán tầm tứ phương tiện, cho đến Sơ địa, chứng biến mãn chân như của tam vô tánh, pháp chấp phân biệt chẳng hiện hành, nên nói Tịnh tâm địa rốt ráo lìa.
Chánh văn :
3. PHÂN BIỆT TRÍ TƯƠNG ƯNG NHIỄM, y nơi Cụ giới địa lìa dần, cho đến Vô tướng phương tiện địa mới rốt ráo lìa.
Giải thích :
‘Phân biệt trí tương ưng’, là trí thức trong ngũ ý và trí tướng trong lục thô. Vì hay phân biệt các pháp nhiễm tịnh thuộc thế gian và xuất thế gian, nên nói ‘trí’, là pháp chấp tu hoặc. Từ Thất địa trở xuống, quán có xuất nhập khác nhau, nên đối với cảnh giới có phân biệt vi tế. Song tùy theo các địa mà từng phần trừ diệt, nên nói ‘lìa dần’.
Bát địa trở đi, không có cảnh ngoại duyên để có quán xuất,[6] ở nơi Thất địa đã hết loại hoặc này, nên nói ‘Cho đến Vô tướng phương tiện địa mới rốt ráo lìa’.
Vì Nhị địa, tam tụ giới[7] đã đầy đủ, nên nói Cụ giới. Vì Thất địa đối với vô tướng quán có công dụng của phương tiện gia hạnh, nên nói ‘Vô tướng phương tiện địa’. Từ Bát địa trở đi, đối với vô tướng không còn công dụng của phương tiện.
Chánh văn :
4. HIỆN SẮC BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM, y nơi sắc tự tại địa có thể lìa.
Giải thích :
‘Hiện sắc bất tương ưng’, là hiện thức thuộc ngũ ý và cảnh giới tướng thuộc tam tế. Giống như gương sáng hiện các sắc tượng. Đây là y nơi căn bản vô minh mà động rồi hiện cảnh giới. Vì ở Bát địa, được ba thứ thế gian tự tại. Sắc tánh tùy tâm không có chướng ngại, nên nói ‘y sắc tự tại địa có thể lìa’. Vì ở địa vị sắc không tự tại thì phần hiện thức không mất, còn ở địa vị này thì bỏ tướng đó.
Chánh văn :
5. NĂNG KIẾN TÂM BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM, y nơi Tâm tự tại địa có thể lìa.
Giải thích :
‘Năng kiến tâm bất tương ưng’, là chuyển thức trong ngũ ý và năng kiến tướng trong tam tế. Vì căn bản vô minh làm động, khiến hay thấy. Văn trên nói: “Y nơi tâm động mà thành năng kiến”. Ở Cửu địa, khéo biết mười thứ trù lâm tâm hành của chúng sinh, nên nói ‘Tâm tự tại địa có thể lìa’.
Chánh văn :
6. CĂN BẢN NGHIỆP BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM, Bồ tát địa tận nhập Như Lai địa có thể lìa.
Giải thích :
‘Căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm’, là nghiệp thức trong ngũ ý và nghiệp tướng trong tam tế. Vì lực vô minh bất giác tâm động. ‘Bồ tát địa tận …’, là Kim cang dụ định thuộc Vô cấu địa, là tâm cuối của Thập địa. Tâm niệm tập khí vi tế đều hết. Văn trên nói: “Được thấy tâm tánh, tâm tức thường trụ”, nên nói ‘có thể lìa’.
Sau là giải thích lại. Có ba : Trước, nói về vô minh, ứng vào mặt trị đoạn mà giải thích. Kế, giải thích nghĩa tương ưng và bất tương ưng. Sau, hiển nhiễm tâm và vô minh ứng vào cảnh mà thành hai loại chướng. Trong phần trước cũng có hai là nêu và giải thích.
Chánh văn :
Chẳng rõ nghĩa nhất pháp giới, từ địa vị Tín tương ưng, quán xét, học, đoạn, nhập Tịnh tâm địa tùy phần được lìa, cho đến Như Lai địa, rốt ráo lìa.
Giải thích :
Phần thô, đến Sơ địa thì lìa được. Phần tế, đến Phật địa mới hết. Đây chính là vô minh trụ địa, sở y của nhiễm tâm, làm nhiễm chân như thành nhiễm tâm. Trước nói ‘Phá thức hòa hợp’ là diệt vô minh. Diệt tương tục tâm là đoạn nhiễm tâm. Nay tuy nói vô minh và nhiễm tâm thấy có trước sau, nhưng trị diệt đều nhất thời.
Chánh văn :
Nghĩa TƯƠNG ƯNG là, tâm niệm pháp khác, y nhiễm tịnh sai biệt mà tri tướng duyên tướng đồng.
Giải thích :
Đây bắt đầu giải thích tương ưng và bất tương ưng. Trong lục nhiễm ba phần trước là tâm tương ưng. Ba phần sau là tâm bất tương ưng.
‘Tương ưng’ có hai cách giải thích :
1. Ứng vào vương và số mà giải thích : Vì ba loại này đều là thô tâm.
‘Tâm niệm pháp khác’ là, tâm là tâm vương, niệm pháp là tâm pháp. Vương và số không đồng, nên nói ‘khác’. Luận Ca Chiên Diên, gọi các thứ đó là tâm và tâm sở niệm pháp.
‘Y nhiễm tịnh sai biệt’, là cảnh được phân biệt.
‘Tướng tri tướng duyên đồng’ là, nếu tâm vương tri nhiễm, tâm pháp cũng đồng. Tâm vương duyên tịnh, tâm pháp cũng đồng. Với tướng tri thì năng tri đồng. Với tướng duyên thì sở duyên đồng.
2. Ứng vào tâm cảnh tương ưng mà giải thích : Vì ba loại này y nơi cảnh mà sinh. Y nơi cảnh mà khởi nên nhiếp thuộc lục tướng. Luận cũng nói : «Cảnh giới diệt nên tâm tương ưng diệt».
‘Tâm niệm pháp khác’ là, tâm là tâm năng duyên. Pháp là pháp trần sở duyên. ‘Khác’, vì tâm cảnh không đồng.
‘Y nơi nhiễm tịnh …’ là đối với nhiễm cảnh, có cái hiểu nhiễm, đối với tịnh cảnh có cái hiểu tịnh, nên nói đồng.
Chánh văn :
Nghĩa BẤT TƯƠNG ƯNG, tức là tâm bất giác thường không riêng khác. Không đồng tướng, tri tướng duyên.
Giải thích :
Ba loại nhiễm sau cùng với vô minh đều gọi là ‘bất tương ưng’. Cũng có hai cách giải thích.
1. Ứng vào vương và số mà giải thích : ‘Tâm bất giác thường không riêng khác’, đây là nói vô minh làm động tâm thể tĩnh. Cái tâm động này là tướng bất giác, hoàn toàn không có vương số sai biệt, nên nói như thế. Đây ngược lại cái ‘tâm niệm pháp khác’ nói trên.
‘Không đồng tướng tri, tướng duyên’ là, đã không có sự sai khác giữa vương và số sao có đồng tri, đồng duyên? Cũng ngược lại với phần sở kiến trước. Vì ba loại này y nơi bất giác mà khởi, chẳng khác bất giác, nên nói ‘tức là’. Văn trên nói: «Y bất giác nên sinh ba thứ tướng, cùng với bất giác kia chẳng xả ly» chính là tâm bất giác này, nên nói ‘chẳng lìa’, không phải do tương ưng mà ‘chẳng lìa’. Văn sau cũng nói : «Vô minh diệt nên tâm bất tương ưng diệt».
2. Ứng vào tâm cảnh mà giải thích : ‘Tức là tâm bất giác …’, vì vô mình này tức là nhiễm tâm, không có thể riêng. Chẳng ứng vào ‘cùng với ngoại cảnh tương ưng’ mới là bất giác này. Chỉ ở tại bản tâm nói trên nên nói ‘tức là tâm…’.
‘Chẳng đồng tướng tri…’, là để phân biệt với cái tương ưng nói trên. Tâm bất tương ưng này đã là A lê da thức, ở đó không phân nghĩa vương số và chẳng cùng với ngoại cảnh tương ưng, đều có nghĩa giác và bất giác v.v…, đều cùng với các luận trái nhau và hòa hợp như trong Biệt ký đã nói.
Trong phần giải thích hai chướng sau : Trước là nêu lập. Sau, giải thích lại. Trong phần trước cũng có hai : Trước là hoặc chướng. Sau, là trí chướng.
Chánh văn :
Nghĩa NHIỄM TÂM, gọi là phiền não ngại, hay làm chướng chân như căn bản trí.
Giải thích :
‘Nhiễm tâm’, là 6 loại nhiễm tâm.
‘Hay làm chướng chân như căn bản trí’, là hiển nghĩa chướng ngại. Cái trí chiếu tịch diệu tuệ như lý, gọi là ‘căn bản trí’, tức là trí tịnh tướng trên. Nhiễm tâm huyên động, nghịch lại với cái tịch tĩnh, nên gọi nhiễm tâm là phiền não ngại. Vì phiền là động, não là động. Nay, y nơi môn bản mạt tương y, lấy cái sở khởi nhiễm tâm làm phiền não ngại, cái năng khởi nhiễm tâm là vô minh làm trí ngại, chẳng phải là ứng vào hai cái chấp nhân pháp mà nói hai chướng.
Chánh văn :
Nghĩa VÔ MINH, gọi là phiền não ngại, hay làm chướng thế gian tự nhiên nghiệp trí.
Giải thích :
‘Vô minh’, là căn bản vô minh. ‘Hay làm chướng…’, là hiển nghĩa chướng ngại. ‘Thế gian tự nhiên nghiệp trí’, là trí hậu đắc như lý, là bất tư nghì nghiệp dụng. Vì vô minh, đều mê không chỗ phân biệt. nghịch lại với trí dụng, gọi là trí ngại. Từ chỗ chướng mà được tên.
Chánh văn :
Nghĩa ấy thế nào?
Giải thích :
Trong phần giải thích lại này, trước hỏi rằng : Vô minh này đã làm động tâm thể thanh tịnh thì vô minh là tế thì nên làm chướng lý trí, nhiễm tâm là thô thì nên làm chướng lượng trí.
Chánh văn :
Vì y nơi nhiễm tâm, hay thấy, hay hiện, vọng thủ cảnh giới, trái lại với tính bình đẳng
Giải thích :
Giải thích phiền não ngại.
‘Vì y nhiễm tâm hay thấy hay hiện’ là, ba cái nhiễm tế sau trong phần lục nhiễm. ‘Vọng thủ cảnh giới’, là nhiếp luôn cả ba nhiễm tâm trước. Vì đồng y nơi cảnh mà khởi. ‘Trái với tánh bình đẳng’ là, giải thích nghĩa chướng. Vì nhiễm tâm này thì năng sở phân biệt, tức trái với năng sở bình đẳng của căn bản trí. Đó là lý dfo làm chướng lý trí.
Chánh văn :
Vì tất cả pháp thường tĩnh lặng, không có tướng khởi, vô minh bất giác, vọng cùng pháp trái, nên không tùy thuận được với chủng chủng trí thông suốt hết thảy cảnh giới thế gian.
Giải thích :
‘Vì tất cả pháp thường tĩnh lặng không có tướng khởi’, là nêu vô minh làm mê pháp tánh. ‘Vô minh bất giác vọng cùng pháp trái’, là hiển vô minh trái với pháp tánh, vì chẳng rõ như pháp tịch tĩnh, vọng có khởi diệt, cùng pháp trái nhau. ‘Không tùy thuận … thế gian’ là, vì trong mê chân lý, ngoài thì thức thấy trần, đối với cảnh như lý chẳng thể tùy thuận chủng chủng trí. Đây là giải thích nghĩa làm chướng trí như lượng.
Giải thích nhân duyên sinh diệt xong. Sau, là nói về tướng sinh diệt. Có ba : Trước, nêu số khởi câu hỏi. Kế, kê tên hiển sơ. Sau, giải thích rộng tướng của nó.
Chánh văn :
Lại nữa, phân biệt tướng sinh diệt có hai loại. Thế nào là hai. Một là thô cùng với tâm tương ưng. Hai là tế cùng với tâm bất tương ưng.
Giải thích :
‘Thô cùng với tâm tương ưng’ là, ba cái nhiễm trước trong lục nhiễm là tâm tương ưng. Tướng nó hiển thô. Trong kinh gọi là tướng sinh diệt.
‘Tế cùng với tâm bất tương ưng’ là, ba cái nhiễm sau là tâm bất tương ưng. Vì không có tướng hiển thô là tâm và tâm pháp. Thể của nó vi tế thường chuyển chẳng dứt. Kinh Lăng Già cuốn 4 gọi là sinh diệt lưu chú. Cuốn 10 thì nói: «Thức có hai thứ diệt : Một là tướng diệt. Hai là tương tục diệt. Sinh trụ cũng như vậy». Trong kinh ngoài danh không hiển riêng tướng, nên nay Luận chủ ứng vào nghĩa tương ưng và bất tương ưng, hiển hai loại tướng thô tế của tâm sinh diệt.
Trong phần giải thích có hai : Trước, là ứng vào người đối hiển. Sau, nói về tướng sở y. Trong phần trước, đầu tiên nêu người thuộc của ba vị.
Chánh văn :
Lại, thô trong thô là cảnh giới của phàm phu.
Giải thích :
Ba nhiễm trước đều gọi là thô. Trong đó, chấp tương ưng nhiễm hoàn toàn thô, nên nói ‘thô trong thô’, Phàm phu trong danh vị Tam hiền có thể giác cái nhiễm này, nên nói ‘cảnh giới phàm phu’.
Chánh văn :
Lại, tế trong thô và thô trong tế là cảnh giới của Bồ tát.
Giải thích :
‘Tế trong thô’ là, trong ba nhiễm thô, hai thứ bất đoạn tương ưng và trí tương ưng là tâm tế hơn tâm thô trước, nên nói ‘tế trong thô’.
‘Thô trong tế’ là, ba nhiễm sau đều gọi là tế. Trong ba thứ đó, thô trong tế là chỉ cho hai tướng năng kiến và năng hiện. Đồng là bất tương ưng, nên gọi là tế. So với căn bản nghiệp thức sau có thô hơn, nên nói ‘Thô trong tế’. Đây là cảnh giới sở tri của hàng Bồ tát Thập địa trở về sau.
Chánh văn :
Tế trong tế là cảnh giới Phật.
Giải thích :
‘Tế trong tế’ là, căn bản nghiệp thức bất tương ưng nhiễm. Năng sở chưa phân. Hành tướng cực tế. Chỉ Phật mới có thể biết.
Sau là nói về nghĩa sở y. Trong đó có hai : Đầu là thuận, nói về sinh duyên. Sau là nghịch, nói về nghĩa diệt. Trong phần đầu cũng có hai : Trước, nói duyên chung. Sau, hiển nhân riêng.
Chánh văn :
Hai thứ sinh diệt này y nơi vô minh huân tập mà có. Đó là y nhân y duyên. Y nhân, là nghĩa bất giác. Y duyên, là nghĩa vọng tạo cảnh giới.
Giải thích :
Đây là gom chung lại mà nói. Hai thức tế và thô đều y nơi vô minh trụ địa mà khởi. Vì gốc vô minh động mà khởi tam tế. Y nơi tam tế đó mới chuyển khởi thô tâm. Vì vô minh là gốc chung, nên nói ‘Y vô minh huân tập mà có’.
Nếu phân ra mà nói thì : Y nơi cái nhân vô minh mà sinh tam tế là tâm bất tương ưng. Y nơi cái duyên cảnh giới mà sinh ba thô là tâm tương ưng. Nên nói ‘Y nhân y duyên … vọng tạo cảnh giới’. Đó là nói tắt, nếu nói đủ thì mỗi thứ có hai nhân, như kinh Lăng Già nói: «Này Đại Huệ ! Bất tư nghì huân và bất tư nghì biến là nhân của hiện thức», «Thủ các thứ trần cùng với vô thủy vọng tưởng huân là nhân của phân biệt sự thức». Giải thích : Bất tư nghì huân, là vô minh hay huân chân như. Chỗ không thể huân mà huân, nên nói là ‘bất tư nghì huân’. Lại, huân tức là không huân, huân của không huân đó, gọi là bất tư nghì huân.
Bất tư nghĩ biến là, tâm chân như chịu sự huân của vô minh, không thể biến dị mà lại biến dị, nên nói là bất tư nghĩ biến. Lại, biến tức là không biến. Cái biến của không biến đó, gọi là bất tư nghì biến. Nó là cái «Không nhiễm mà nhiễm, nhiễm mà không nhiễm, khó có thể biết thấu» của kinh Thắng Man. Cái huân và biến này rất vi tế mà lại ẩn, nên chỗ khởi hiện thức, hành tướng của nó vi tế, trong đó cũng có chuyển thức và nghiệp thức. Nêu thô mà kiêm cả tế nên chỉ nói hiện thức, chính là tâm bất tương ưng này.
Thủ các thứ trần, là hiện thức hiện ra các thứ trần cảnh, làm động lại tâm hải đó mà khởi các sóng sự thức.
Vô thủy vọng tưởng huân, là vọng niệm tập khí huân tập chẳng dứt từ thời vô thủy đến nay trong biển tâm hòa hợp, vì chưa từng ly niệm. Các trần cùng với niệm huân động tâm hải làm các thứ thức sinh. Vì vọng niệm và trần cảnh thì thô mà lại hiển nên chỗ khởi phân biệt sự thức, hành tướng của nó thô, hiển thành tâm tương ưng. Kinh muốn nói, hiện thức y nơi bất tư nghì huân mà được sinh, y nơi bất tư nghì biến mà được trụ. Nay ở luận này, chỉ nói sinh duyên nên không luận về y trụ, nên ở trong tế chỉ nói vô minh huân, trong thô chỉ nêu cảnh giới duyên.
Chánh văn :
Nếu nhân diệt thì duyên diệt.
Giải thích :
Trước, nói chung chung về diệt. Khi được đối trị thì vô minh diệt, mà vô minh khởi hiện thức, nên cảnh giới cũng diệt theo. Vì thế nói ‘nhân diệt thì duyên diệt’.
Chánh văn :
Nhân diệt thì tâm bất tương ưng diệt. Duyên diệt thì tâm tương ưng diệt.
Giải thích :
Đây là nói chi tiết về diệt. ‘Nhân diệt’ là, vì tam tế y trực tiếp nơi nhân vô minh mà sinh, nên khi vô minh diệt thì cũng diệt theo. ‘Duyên diệt’ là, vì ba nhiễm thô y trực tiếp nơi cảnh giới mà sinh, nên khi cảnh giới diệt thì diệt theo. Đây là y nơi đạo lý khởi diệt đầu cuối mà nói về nghĩa của hai loại sinh diệt, không phải là ứng vào nghĩa sát na sinh diệt.
Trong phần giải thích nói sau có hai : Trước hỏi sau đáp.
Chánh văn :
Hỏi : Nếu tâm diệt thì làm sao tương tục. nếu tương tục thì sao nói rốt ráo diệt?
Giải thích :
Hỏi ‘Nếu tâm diệt thì làm sao tương tục’ là hỏi : Nếu khi cảnh giới diệt mà tâm thể cũng diệt, tức vô minh tam tế chưa tận mà tâm thể đã mất thì y nơi pháp nào mà được tương tục? Đây là nghi tâm tương ưng.
‘Nếu tương tục thì sao nói rốt ráo diệt?’ là nói nếu do tâm thể chẳng diệt mà khiến vô minh được tương tục thì tâm thể đã chẳng diệt, vô minh lại thường tương tục, làm sao trị đạo mà được rốt ráo diệt? Đây là nghi tâm bất tương ưng.
Trong phần trả lời sau sẽ trả lời hai câu này. Có cả pháp, dụ và hợp. Trong phần pháp thì nêu chung. Trong phần dụ thì đáp riêng hai câu hỏi đó.
Chánh văn :
Đáp : Nói diệt đó, chỉ là tướng của tâm diệt, chẳng phải là thể của tâm diệt.
Giải thích :
Khi cảnh giới diệt chỉ là tướng thô của tâm diệt, không phải tự thể của tâm diệt. Lại, vì khi vô minh diệt, chỉ là tướng tế của tâm diệt cũng không phải là thể của tâm diệt. Đây là đáp chung hai câu hỏi trên. Trong phần thí dụ sau sẽ trả lời riêng từng câu.
Chánh văn :
Như gió y nơi nước mà có tướng động, nếu nước diệt thì tướng gió đoạn dứt, không có chỗ y chỉ. Vì nước không diệt, tướng gió tương tục, chỉ có gió diệt nên tướng động diệt theo, không phải là nước diệt.
Giải thích :
‘Như gió y nơi nước mà có tương động’, là dụ cho gió vô minh y nơi tâm thể nên có tướng động. Đây là muốn nói vô minh nếu lìa khỏi tâm thể thì không có tướng động.
‘Nếu nước diệt … không chỗ y chỉ’, là muốn nói nếu khi cảnh quả diệt mà khiến tâm thể cũng diệt thì gió vô minh không chỗ động, tam tế là nghiệp thức v.v… cũng nên đoạn diệt.
‘Vì nước không diệt, tướng gió tương tục’, là vì khi cảnh giới diệt, tâm thể chẳng diệt, vô minh tam tế được tương tục mãi. Thực là do vô minh diệt nên cảnh giới diệt. Chẳng phải vì cảnh giới diệt mà vô minh diệt. Do nghĩa này nên khi cảnh giới diệt, vô minh động tâm, tam tế tương tục. Đây là đáp câu hỏi tâm tương ưng diệt.
‘Chỉ là gió diệt …không phải nước diệt’ là, vì khi vô minh hết, các tướng động như nghiệp thức v.v… cũng diệt theo, không phải tâm thể thanh tịnh cũng diệt. Đây là trả lời câu hỏi về tâm bất tương ưng.
Trong phần hợp, thứ lớp hợp hai loại tâm trước.
Chánh văn :
Vô minh cũng vậy, y nơi tâm thể mà động. Nếu tâm thể diệt thì chúng sinh đoạn dứt, không có chỗ y chỉ. Vì thể không diệt mà tâm được tương tục, chỉ si diệt, nên tướng của tâm diệt theo, không phải là tâm trí diệt.
Giải thích :
‘Không phải tâm trí diệt’ là, ở văn trên, do đối với bất giác mà gọi là giác thì một thức có hai nghĩa. Nay vì đối với si mà gọi là trí, thì một tâm mà có thể và tướng. bất giác si tướng chuyển diệt thành thủy giác. Bản giác trí thể chẳng diệt cùng với hoàn nguyên không hai không khác.
Từ trên đến đây giải thích tướng nhiễm tịnh của nhân duyên sinh diệt xong. Từ đây trở về sau, nói về hai thứ nhiễm tịnh huân nhau cùng sinh chẳng dứt. Tức là hiển nghĩa hay sinh tất cả pháp. Trong đó có bốn : 1/Nêu số. 2/Liệt kệ tên của pháp nhiễm tịnh. 3/Giải thích rộng nghĩa nhiễm tịnh huân tập. 4/Nói về nghĩa tận và không tận của nhiễm tịnh.
Chánh văn :
Lại, có bốn loại pháp huân tập nghĩa nên tịnh pháp và nhiễm pháp khởi chẳng đoạn dứt.
Giải thích :
Do các loại tịnh và nhiễm này tương trợ mà khởi chẳng ngừng.
Chánh văn :
Thế nào là bốn :
1. Tịnh pháp, gọi là chân như.
2. Tất cả nhiễm nhân, gọi là vô minh.
3. Vọng tâm, gọi là nghiệp thức.
4. Vọng cảnh giới, đó là lục trần.
Giải thích :
‘Tịnh pháp gọi là chân như’, là chân như trong môn sinh diệt. Vì có ba nghĩa mà nói là tịnh pháp : 1/Ứng vào thể : Xưa nay thanh tịnh. 2/ Ứng vào thể tướng : Vì làm nội huân, khiến phản nhiễm thành thủy giác thanh tịnh. Lương Nhiếp Luận nói : «Năng thành lập, là mười loại công đức của chân như. Sở thành lập, là muời loại thân sinh chánh hạnh». 3/ Ứng vào dụng huân tập : Ứng cơ mà thành tịnh duyên.
‘Tất cả nhiễm nhân gọi là vô minh’, là lục nhiễm và chín tướng bất giác v.v…đều nhân nơi vô minh mà có. ‘Vọng tâm’, là chỉ chung cho cả sự thức và nghiệp thức. Nay y vào cái gốc này, nên chỉ nói nghiệp thức. ‘Vọng cảnh giới đó là sáu trần’, là cảnh sở duyên của sự thức. Ba thứ này đều là nhiễm pháp. Vì nhiễm pháp này, tự tánh sai biệt nương nhờ vào nhân duyên, nên nói đủ ba thứ. Tịnh pháp là đối với nhiễm, tuy thành nghĩa huân nhưng thể và dụng của nó rốt ráo chưa từng sai khác, nên chỉ nói một.
Trong phần giải thích rộng, trước là tổng, sau là biệt. Trong phần Tổng cũng có hai : Trước là dụ, sau là hợp.
Chánh văn :
Nghĩa huân tập là, như ở thế gian, quần áo thật không hương, nếu người dùng hương mà xông ướp (huân tập) thì có mùi hương. Đây cũng như vậy. Chân như tịnh pháp thật không có nhiễm, chỉ do vô minh mà huân tập nên có nhiễm tướng. Vô minh nhiễm pháp thật không có tịnh nghiệp, chỉ do chân như mà huân tập nên có tịnh dụng.
Giải thích :
Trong phần hợp có hai :
- Nhiễm tịnh huân tập.
Nói do huân mà có nhiễm tướng, là nói chân như không tướng theo sự huân tập mà hiện tướng, cũng là hiển vọng pháp không có tự thể, nên chỉ nói ‘tướng’. Lại, ngay tướng ấy thì không có cái dụng ngược lại nên chỉ nói ‘tướng’ mà không nói dụng. Đây là ứng vào môn theo dòng sinh diệt mà nói. Đây là giải thích phần ‘Như Lai tạng bị ác tập huân tập …’ nói trong kinh.
2. Có tịnh dụng
Đây là bản giác chân như nói trong môn sinh diệt, nên có nghĩa huân tập. Với môn chân như thì không có nghĩa này. Do bản giác này nội huân bất gíac, khiến thành chán cầu, ngược dòng thuận chân, nên nói ‘Dụng’. Đây là giải thích phần ‘Do có Như Lai tạng, nên hay chán cái khổ sinh tử, thích cầu niết bàn’ nói trong kinh. Kinh Niết Bàn nói : «Hạng xiển đề, vị lai do Phật tánh lực mà sinh lại thiện căn» . Đó nói ‘Phật tánh lực’, chính là lực nội huân của bản giác. Thực là do một thức bao hàm hai nghĩa huân biến với nhau mà sinh nhiễm tịnh. Trong đó Phật là giác, tánh là bản, nên gọi Phật tánh là bản giác.
Trong phần biệt giái thích sau có hai : Trước là nhiễm, sau là tịnh. Trong nhiễm có hai : Trước nói lược, sau nói rộng.
Chánh văn :
Thế nào là huân tập khởi nhiễm pháp chẳng dứt ?
Giải thích :
Phàm, nói về huân tập có hai loại :
1. Tập huân : Huân tâm thể thành nhiễm tịnh v.v…
2. Trợ huân : Tâm cảnh hiện hành và các hoặc tương trợ v.v…
Chánh văn :
Đó là, y nơi pháp chân như nên có vô minh. Do có vô minh là nhân của nhiễm pháp nên liền huân tập chân như. Vì huân tập nên có vọng tâm. Do có vọng tâm liền huân tập vô minh. Không rõ pháp chân như nên bất giác niệm khởi hiện cảnh giới hư vọng. Vì có cảnh giới hư vọng, là duyên của nhiễm pháp nên liền huân tập vọng tâm, khiến tâm ấy niệm trước tạo các thứ nghiệp, thọ tất cả các khổ của thân tâm.
Giải thích :
‘Y chân như có vô minh’, là nêu pháp năng huân và pháp thể sở huân. Cũng có thể chỉ nêu năng huân là vô minh, nhưng vì y nơi chân nên là ứng vào gốc mà nêu.
‘Vì có vô minh … huân tập chân như’, là nghĩa căn bản vô minh huân tập. ‘Vì huân tập nên có vọng tâm’, là y nơi vô minh huân động chân như mà có tâm nghiệp thức. Vì vọng tâm này trợ huân trở lại vô minh làm tăng thêm cái chẳng rõ, khiến nó chuyển thành chuyển thức và hiện thức, nên nói ‘bất giác niệm khởi hiện cảnh giới hư vọng’. Do cảnh giới này huân động biển tâm khởi các sóng thức. Duyên niệm cảnh đó liền khởi sự thức. Trong lục thô trên, hai tướng đầu gọi là niệm. Hai tướng giữa gọi là trước. Hai tướng sau gọi đồng với đây, là y hoặc tạo nghiệp, y nghiệp thọ khổ báo.
Sau là giải thích rộng. Tức nói ba loại trước, theo thứ tự từ dưới hướng lên trên. Đầu tiên nói về cảnh giới huân động vọng tâm.
Chánh văn :
Nghĩa cảnh giới hư vọng huân tập có hai thứ. Thế nào là hai ?
1. Tăng trưởng niệm huân tập.
2. Tăng trưởng thủ huân tập.
Giải thích :
‘Tăng trưởng niệm’ là, do lực của cảnh giới mà tăng trưởng trí-tướng và tương-tục-tướng trong sự thức, là pháp chấp phân biệt niệm.
‘Tăng trưởng thủ’, là Chấp-thủ-tướng và Kế-danh-tự-tướng trong sự thức, là nhân ngã kiến ái phiền não.
Chánh văn :
Nghĩa vọng tâm huân tập có hai thứ. Thế nào là hai?
1. Nghiệp thức căn bản huân tập : Chịu cái khổ sinh diệt của A La Hán, Bích Chi Phật và tất cả Bồ tát.
2. Tăng trưởng sự thức phân biệt huân tập : Chịu cái khổ bị nghiệp trói buộc của phàm phu.
Giải thích :
‘Nghiệp thức căn bản huân tập’ là, vì nghiệp thức này hay trợ huân vô minh trụ địa. Mê nơi cái vô tướng hay khởi chuyển tướng, hiện tướng v.v… tương tục, khiến cho hàng Tam thừa chỉ lìa được cái khổ phần đoạn thô của sự thức, là ra khỏi tam giới, nhưng vẫn chịu cái hành khổ biến dịch của Alêda. Cái khổ tế này có từ thời vô thủy. Chỉ là phân biệt tế khác thô nên ứng vào cái tướng hiển cái chỗ khi đã lìa cái khổ thô mà nói.[8]
‘Sự thức phân biệt huân tập’ là, vì sự thức này hay trợ huân khi khởi vô minh, khởi thô hoặc là kiến và ái, phát động thân khẩu khởi các thứ nghiệp, chịu cái khổ phần đoạn của phàm phu.
Chánh văn :
Nghĩa vô minh huân tập có hai. Thế nào là hai?
1. Căn bản huân tập : Vì hay thành tựu nghĩa nghiệp thức.
2. Sở khởi kiến ái huân tập : Vì hay thành tựu nghĩa phân biệt sự thức.
Giải thích :
‘Căn bản huân tập’, là căn bản bất giác huân động chân như thành các thức như nghiệp thức v.v… Đây chỉ nêu cái đầu tiên nên nói nghiệp thức.
‘Sở khởi kiến ái’ là chi mạt bất giác huân tập tâm thể thành phân biệt sự thức. Văn trên nói : «Thức này y nơi kíến ái phiền não mà tăng trưởng». Mạt là từ bản mà sinh nên nói ‘sở khởi’. Kinh Thắng Man nói: «Vô minh trụ địa khởi tất cả tứ trụ phiền não».
Sau là nói về tịnh huân. trong đó có hai : Trước là hỏi, sau là đáp. Trong đáp cũng có hai : Trước là lược, sau là rộng. Trong phần lược cũng có hai : Trước nói chính về huân tập. Sau nói về công năng.
Chánh văn :
Thế nào là huân tập khởi tịnh pháp chẳng dứt? Đó là, vì có pháp chân như nên hay huân tập vô minh. Vì lực nhân duyên huân tập đó mới khiến vọng tâm chán cái khổ sinh tử, thích cầu niết bàn. Vì nhân duyên vọng tâm chán cầu này nên liền huân tập chân như.
Giải thích :
Trước là nói chân như nội huân vô minh khiến thành tịnh nghiệp. Sau, tịnh dụng đó lại huân trở lại chân như làm tăng thế lực. Trước là bản huân. Sau là mới huân.
Trong phần công năng, nhân quả phân hai.
Chánh văn :
Tự tin tánh mình, biết tâm vọng động, không có cảnh giới trước mắt, tu pháp xa lìa. Vì như thật biết không có cảnh giới trước mắt, nên có các thứ phương tiện khởi hạnh tùy thuận, chẳng thủ chẳng niệm, cho đến lâu xa, nhờ lực huân tập ...
Giải thích :
‘Tự tin tánh mình’, là tín trong vị Thập tín.
‘Biết tâm vọng động …’, là tu trong vị Tam hiền. ‘Biết tâm vọng động không có cảnh giới trước mắt’, là giải (hiểu). ‘Tu pháp xa lìa’, là y giải thành hạnh, là các hạnh tầm tư đẳng quán, chỉ do thức không có trần cảnh bên ngoài. ‘Vì như thật biết…’, là Sơ địa kiến đạo, chứng lý Duy thức. Khác với tỉ quán[9] trước nên nói’như thật biết’.
‘Nên có các thứ phương tiện…’, là nói về Thâp địa. Trong địa vị tu đạo này tu rộng vạn hạnh, khéo hiển chân như. ‘Chẳng thủ’, là sở thủ vô tướng. ‘Chẳng niệm’, là năng niệm chẳng sinh. ‘Lâu xa’, là ba a tăng kỳ huân tập.
Sau, nói về quả. Trong đó có hai : Trước là diệt hoặc. Sau là chứng lý.
Chánh văn :
… Vô minh diệt. Vì vô minh diệt nên tâm không khởi. Vì không có khởi nên cảnh giới diệt theo. Vì nhân duyên đều diệt nên tâm tướng đều hết, gọi là được niết bàn, thành nghiệp tự nhiên.
Giải thích :
‘Vô minh diệt’, là căn bản vô minh hết. ‘Vì vô minh diệt nên tâm không khởi’ là vọng tâm hết. ‘Vì không khởi nên cảnh giới diệt theo’, là vọng cảnh diệt. Đây ngược lại với ba loại nhiễm pháp trên.
‘Vì nhân duyên … tự nhiên’, là chứng pháp đức. ‘Nhân’, là vô minh. ‘Duyên’, là vọng cảnh. ‘Tâm tướng’, là nhiễm tâm. Các thứ này đều hết.
‘Tâm thể chuyển y’, gọi là được niết bàn. Khởi nghiệp dụng bất tư nghì, gọi là nghiệp tự nhiên.
Sau là nói rộng. Có hai : Trước, nói về vọng tâm huân tập. Sau, nói về chân như huân tập.
Chánh văn :
Nghĩa vọng tâm huân tập có hai. Thế nào là hai?
1. Phân biệt sự thức huân tập : Y nơi phàm phu và Nhị thừa chán sinh tử khổ, tùy lực của mình mà hướng dần về đạo vô thượng.
Giải thích :
Phân biệt sự thức chính là ý thức trên. Vì thức này không biết các trần chỉ là thức, nên chấp ngoài tâm thật có cảnh giới. Phàm phu và Nhị thừa tuy có phát tâm thú hướng giải thoát, nhưng vẫn còn chấp có sinh tử đáng chán, niết bàn đáng vui, mà không rõ đạo lý duy tâm. Cũng do lực tác ý này mà lâu xa về sau mới được bồ đề, nên nói: ‘Phân biệt sự thức …vô thượng’.
Chánh văn :
2. Ý huân tập : Các Bồ tát phát tâm dũng mãnh chóng hướng niết bàn.
Giải thích :
‘Ý huân tập’, nếu ngay nơi gốc mà nói thì gọi là nghiệp thức. Nếu nói chung, là 5 loại ý nói trên. Vì các Bồ tát biết tất cả pháp chỉ là thức lượng, xả bỏ sự thức ngoại kế phân biệt. Đã rõ duy tâm, hướng lý mau chóng. Khác với tiệm ngộ nên nói : ‘Chóng hướng niết bàn’.
Hỏi : Trong đó, vọng tâm đều đã huân tập chân như khởi hạnh ngược dòng. Ý huân đã thuộc A lê da, vì sao mỗi người lại có thể tự phát tâm tu hành?
Đáp : Phàm phu và Nhị thừa không biết có thức A lê da, chỉ y nơi lực trợ trì của phân biệt sự thức mà phát tâm tu hành. Vì không nắm được cái gốc là hướng về đại bồ đề, sơ mà lại xa, nên nói ‘dần’. Các Bồ tát đã rõ thức A lê da, liền y nơi lực trợ trì của thức này, mới được phát tâm tu hành. Vì đã rõ được gốc là hướng đại bồ đề, thân mà lại gần, nên nói ‘chóng’. Đây là ứng vào sở y tương trợ mà nói về sự huân tập, không phải là mỗi người tự phát tâm. Đây là y theo phần Chứng phát tâm sau mà nói.
Phần Chân như huân tập nói sau có ba : Trước là nêu số. Kế là liệt kê tên. Sau là nói về dụng đại. Trong phần nêu số có hai : Trước là chánh hiển. Sau là trừ nghi.
Chánh văn :
Nghĩa chân như huân tập có hai. Thế nào là hai?
1. Tướng tự thể huân tập : Từ vô thủy đến nay có đầy đủ pháp vô lậu, có đầy đủ nghiệp không thể nghĩ bàn làm tánh cảnh giới. Y nơi hai nghĩa này hằng thường huân tập. Vì có lực nên hay khiến chúng sinh chán sinh tử khổ thích cầu niêt bàn, tự tin thân mình có pháp chân như, phát tâm tu hành.
Giải thích :
‘Từ vô thủy …nghiệp không thể nghĩ bàn’ là bản giác bất không, gọi là pháp vô lậu. Pháp này hằng huân tập chúng sinh, không phải người đời có thể biết, nên nói ‘Nghiệp không thể nghĩ bàn’. Trong đó, ‘nghiệp’ là tác dụng của ám huân. ‘Làm tánh cảnh giới’ là nói không phải chân huân vọng tâm khiến chán và cầu thành trí năng quán, mà cùng với trí năng quán tạo ra cảnh giới sở quán. ‘Y nơi hai pháp này …’ là hiển công năng huân tập. Nghĩa là hai pháp tâm cảnh này, cũng là hai pháp thể và tướng, ám huân chúng sinh có lực khiến khởi các hạnh chán và cầu. ‘Tự tin tánh mình …’ là nói y nơi sự huân tập mà khởi tướng tu hành.
Trong phần giải thích nghi, trước là hỏi, sau là đáp.
Chánh văn :
Hỏi : Nếu nghĩa đúng như thế thì tất cả chúng sinh đều có chân như, đều đồng huân tập, vì sao có ‘tin và không tin’ trước sau vô lượng sai biệt ? Đều nên đồng thời tự biết có pháp chân như, siêng tu phương tiện cùng nhập niết bàn.
Giải thích :
Trước, là ứng vào hiện tại mà nói tín tâm có không. Sau là ứng vào vị lai mà tín tâm có trước sau. Nội huân đã đồng sao có thể như vậy?
‘Đều nên đồng thời …’ là kết thành nạn vấn. Đây là chấp thì riêng mà nghi thì nạn vấn chung.
Chánh văn :
Chân như vốn một mà có vô lượng vô biên vô minh, từ xưa đến nay, tự tánh sai biệt dày mỏng chẳng đồng, nên có quá hằng sa thượng phiền não y nơi vô minh mà khởi sai biệt, ngã kiến ái nhiễm phiền não y nơi vô minh mà khởi sai biệt. Tất cả phiền não như thế đều y nơi vô minh khởi vô lượng sai biệt trước sau, chỉ Như Lai là hay biết.
Giải thích :
Trước nói ‘Chân như vốn một…’ là chung một thể, muốn nói nội huân chẳng không. Sau, nói nhiễm tịnh là nhờ duyên hiển thành trước sau. Phần trên có hai : Trước là ứng vào nhiễm hoặc, đối duyên mà khởi có dày mỏng. Sau, ứng vào tịnh pháp, nhờ duyên mà trước sau có sai khác.
‘Mà có vô lượng … chẳng đồng’ là nói căn bản vô minh trụ địa, xưa nay tự tánh sai biệt tùy người dày mỏng. Mỏng, thì chẳng tin. Dày, là có tin. Trước và sau cũng như vậy. Không phải nội huân …[10]
‘Quá hằng hà sa thượng phiền não y nơi vô minh khởi sai biệt’ là từ vô minh khởi mê các pháp môn sự trung vô tri, nhiếp thuộc phần thô của sở tri chướng.
‘Ngã kiến ái nhiễm phiền não’ là vô minh khởi tứ trụ phiền não, nhiếp thuộc phiền não chướng.
‘Tất cả phiền não …’ là kết luôn cả hai loại phiền não nói trước, đều y nơi căn bản vô minh mà khởi. Do nghĩa này nên trước sau không phải một. Như vậy, hoặc tánh sai biệt vô lượng trước sau khó biết, nên chỉ Phật mới có thể biết hết.
Sau, nói về tịnh pháp, ứng vào duyên nên có trước sau.
Chánh văn :
Lại, pháp của chư Phật có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ thì pháp mới được thành.
Giải thích :
Nếu chỉ có nhân bên trong, không nhờ duyên bên thì có thể sẽ như câu hỏi vặn,[11] nhưng nay ngoài thì mượn dụng huân, trong thì có chánh nhân mới được thành, nên có trước sau không thể đồng thời. Cho nên trên khai triển hai loại huân tập, không nói một. Trong đó có pháp, dụ và hợp, thì trong phần pháp chỉ nói nhân duyên đầy đủ mới thành được, lược qua chỗ không đầy đủ. Trong phần dụ, chỉ nói về cái không đầy đủ, lược đi cái đầy đủ. Trong phần hợp nói cả hai nghĩa.
Chánh văn :
Như tánh lửa trong cây là chánh nhân của lửa. Nếu không ai biết, chẳng mượn phương tiện, mà cho là cây tự cháy, thì không có chuyện đó. Chúng sinh cũng như vậy. Tuy có lực huân tập của chánh nhân, nếu chẳng gặp chư Phật, Bồ tát, thiện tri thức v.v… lấy đó làm duyên mà có thể tự đoạn phiền não nhập niết bàn thì không có chuyện ấy. Nếu, tuy có lực của ngoại duyên mà trong chưa có lực huân tập của tịnh pháp thì cũng chẳng đến mức có thể chán cái khổ sinh tử, thích cầu niết bàn. Nếu nhân duyên đầy đủ…
Giải thích :
Trong phần hợp, ‘chúng sinh’ hợp với ‘cây’ nói trước. ‘Chánh nhân’ hợp với ‘tánh lửa’. ‘Nếu không gặp chư Phật …’ hợp với ‘Nếu không ai biết…’. ‘Có thể tự đoạn phiền não …’ hợp với ‘cây tự cháy thì không có chuyện ấy’. Đây muốn nói sự mất mát của việc thiếu duyên. ‘Nếu tuy có …’ nói sự không thành của việc thiếu nhân. Nghĩa là dòng vô minh dày mỏng dù được bản giác nội huân mà chưa có lực. Cho nên tuy gặp lực ngoại duyên của bạn lành mà cũng chẳng thể khiến họ đắc đạo. Đây là nói sự mất mát do nhân duyên không đủ.
‘Nếu nhân duyên đầy đủ…’ là nói cái có được khi tánh và dụng tương ưng. Trong đó có hai. Đầu tiên là nói đủ duyên. Sau là nói về sự lợi ích của việc huân tập.
Chánh văn :
Nghĩa là tự có lực huân tập, lại được nguyện từ bi của chư Phật, Bồ tát v.v… hộ trì.
Giải thích :
Trong phần lợi ích có hai : Trước nói về tự phần. Sau nói về thắng tiến phần.
Chánh văn :
Hay khởi tâm chán khổ, tin có niết bàn, tu tập thiện căn. Do tu thiện căn thành thục, gặp được chư Phật Bồ tát chỉ dạy lợi hỉ mới có thể tiến thú hướng về đạo niết bàn.
Giải thích :
‘Chỉ’ nghĩa ấy, ‘dạy’ hạnh ấy, được cái nghĩa ‘lợi’ hạnh thành ‘hỉ’. Trong phần lợi huân tập có hai : Trước là chỉ ra sự để tổng nêu. Sau là ứng vào duyên mà hiển riêng. Trong phần hiển riêng có ba là nêu, liệt kê và giải thích.
Chánh văn :
Dụng huân tập là lực huân tập ngoại duyên của chúng sinh. Như vậy, ngoại duyên có vô lượng nghĩa. Lược nói có hai loại. Thế nào là hai ? Một là duyên sai biệt. Hai là duyên bình đẳng.
Giải thích :
Duyên sai biệt là, vì phàm phu và Tiểu thừa, do sự thức huân tập mà tạo các duyên, vì hiện hình không đồng nên nói như vậy. Cũng có thể là : Cùng với căn cơ sai biệt làm duyên. Nghĩa là, Tam hiền trở đi cho đến chư Phật hay tạo các duyên này.
Duyên bình đẳng là, vì chư Bồ tát do nghiệp thức huân tập mà tạo các duyên. Nghĩa là chỉ hiện Phật thân bình đẳng không hai nên nói như thế. Cũng có thể là : Cùng với tâm bình đẳng làm duyên. Nghĩa là, Sơ địa trở đi cho đến chư Phật chủ yếu là y nơi đồng thể trí lực mà tạo duyên này.
Trong phần giải thích có hai : Duyên có hai phần. Trong phần đầu có hai. Trước tổng sau biệt. Trong tổng có hai. Trước nói về cảm dụng nhân. Sau nói về dụng tướng.
Chánh văn :
Duyên sai biệt là, người này y nơi chư Phật và các vị Bồ tát từ sơ phát ý, khi mới cầu đạo cho đến khi thành Phật, trong khoảng đó, nếu thấy nếu niệm.
Giải thích :
‘Người này’, là nói hàng căn cơ ở cõi dục. ‘Chư Phật và các vị Bồ tát’ là xuất ngoại duyên thể. ‘Từ sơ phát ý …’, là căn cơ cảm duyên khi tu hành. ‘Nếu thấy, nếu niệm’ là, tâm cảm dụng khí của hành giả, là thấy các thân hình, niệm các công đức.
Trong phần tướng dụng nói sau có hai : Trước nói về dụng sai biệt. sau, nói về dụng lợi ích.
Chánh văn :
Hoặc làm quyến thuộc, phụ mẫu, các thân ; Hoặc làm cấp sử ; Hoặc làm bạn hữu ; Hoặc làm oan gia ; Hoặc khởi tứ nhiếp.
Giải thích :
5 câu này là khai tổng thành biệt. Câu một, là dùng từ ái để nhiếp sinh. Câu hai, là lấy chỗ thấp hèn để dẫn vật. Câu ba, là dùng chỗ đồng loại để khuyến phát. Câu bốn, là dùng sự sợ hãi để nhập đạo. câu năm, là chỉ thẳng lợi ích trong việc dùng tứ nhiếp pháp khiến người tu hành.
Chánh văn :
Cho đến tất cả mọi việc làm vô lượng duyên hạnh, do khởi lực huân tập của đại bi, khiến chúng sinh tăng trưởng thiện căn, hoặc thấy hoặc nghe đều được lợi ích.
Giải thích :
Đây là nhiếp biệt thành tổng. Trong phần biệt khai có hai : Trước là ngay nơi căn thuần thục và không thuần thục mà khai mở hai duyên xa gần. Sau, ngay nơi cái xa gần đó mà khai triển mỗi thứ thành hai, đều có tiêu đề và giải thích.
Chánh văn :
Duyên này có hai loại. Thế nào là hai? Một là duyên gần thì chống được độ. Hai là duyên xa, thì lâu xa mới được độ. Hai duyên xa và gần này, phân biệt lại có hai loại. Thế nào là hai? Một là duyên hạnh tăng trưởng. Hai là duyên thọ đạo.
Giải thích :
‘Duyên hạnh tăng trưởng’, là hạnh phương tiện, thuộc tự phần. ‘Duyên thọ đạo’, là y nơi phương tiện trước, chánh quán tương ưng, thuộc thắng tiến. Cũng có thể giải thích : Duyên đầu là hạnh tứ nhiếp thuộc cả tự và tha. Duyên sau là tam không, là hạnh tự lợi.
Trong phần bình đẳng duyên nói sau có hai : trước là nói về duyên năng tác.
Chánh văn :
Duyên bình đẳng là, tất cả chư Phật và Bồ tát đều nguyện độ thoát tất cả chúng sinh, tự nhiên huân tập thường hằng chẳng bỏ, vì đồng thể trí lực, tùy theo sự ứng cảm thấy nghe mà hiện làm các nghiệp.
Giải thích :
Nguyện độ sinh là, tâm bình đẳng. ‘Tự nhiên …’ là cái dụng thường hằng do ứng cơ mà có. ‘Vì đồng thể trí lực’, là giải thích cái dụng thường hằng đó. ‘Tùy theo sự ứng cảm …’, là hiển tướng dụng.
Sau là nói về nghĩa đối cơ hiển bình đẳng.
Chánh văn :
Đó là, chúng sinh y nơi tam muội mà được bình đẳng thấy chư Phật.
Giải thích :
Các Bồ tát từ Thập trụ trở đi nương nơi lực tam muội đều thấy thân lượng bình đẳng của chư Phật. Không có tướng phần hạn đây kia, nên nói ‘bình đẳng thấy’.
Nói về thể và dụng xong. Sau là ứng vào người, hợp lại mà giải thích. Trong đó cũng có tiêu đề và giải thích.
Chánh văn :
Thể dụng huân tập này phân biệt lại có hai. Thế nào là hai? Một, là chưa tương ưng : Phàm phu, Nhị thừa và Bồ tát sơ phát ý v.v… dùng ý và ý thức huân tập, y nơi tín lực mà tu hành.
Giải thích :
Trong phần giải thích có hai : Trước là nói về ‘Chưa tương ưng’. Có ba : Ứng vào địa vị mà nêu ra người. Kế là nói về hạnh yếu kém. Sau, nói về chưa tương ưng. Trong phần hạnh, phàm phu và Nhị thừa do ý thức huân tập, còn Bồ tát là do ngũ ý huân. Đều chưa khế hợp với chân như, nên nói y nơi ‘Tín lực mà tu hành’.
Chánh văn :
Chưa được tâm vô phân biệt cùng với thể tương ưng, nên chưa được nghiệp tự tại tu hành cùng với dụng tương ưng.
Giải thích :
Phần chưa tương ưng có hai :
. ‘Chưa được tâm vô phân biệt cùng với thể tương ưng’, là nói không có chánh trí thể, nên chưa cùng với pháp thân thể tương ưng.
. ‘Chưa được nghiệp tự tại tu hành cùng dụng tương ưng’, vì không chứng được hậu đắc trí chân thật nên chưa cùng với ứng hóa thân dụng tương ưng.
Chánh văn :
Hai, là đã tương ưng. Pháp thân Bồ tát được tâm vô phân biệt cùng với tự thể của chư Phật tương ưng, được tự tại nghiệp cùng với trí dụng của chư Phật tương ưng. Chỉ y nơi pháp lực tự nhiên tu hành, huân tập chân như, diệt vô minh.
Giải thích :
Phần ‘Đã tương ưng’ này có ba :
. Trước là hiển nhân vị, là hàng Bồ tát đăng địa.
. Kế là nói về ‘tương ưng’ : ‘Được tâm vô phân biệt’ là trí như lý cùng với thể tương ưng. ‘Cùng với trí dụng của Phật tương ưng’ là, vì có trí như lý nên được như thế.
. Sau là nói về thắng hạnh của họ : Sơ địa trở lên chứng pháp chân như mà tu hành. Không phải như những vị trước, chỉ có tín lực, nên nói ‘Y pháp lực’.
‘Tự nhiên tu hành’ là, vô công dụng hạnh của Bát địa trở đi. Huân chân diệt vọng là hạnh thành tựu.
Phần tịnh pháp huân tập đã xong : Trước, nói riêng, kế hợp lại giải thích, tổng nêu nghĩa huân tập nhiễm tịnh xong.
Sau là hiển nghĩa tận và bất tận. Trong đó có hai : Trước nói nhiễm pháp trái với chân, không thủy mà có chung. Sau, nói về tịnh pháp thuận lý, có thủy không chung.
Chánh văn :
Lại nữa, nhiễm pháp từ vô thủy đến nay huân tập chẳng dứt cho đến khi thành Phật, sau mới đoạn được.
Giải thích :
Trong phần nhiễm pháp có hai: Đây là chánh hiển. Sau, giải thích sự thành tựu.
Chánh văn :
Tịnh pháp huân tập thì không có đoạn tận ở vị lai. Nghĩa đó thế nào? Vì pháp chân như thường huân tập nên vọng tâm thì diệt, pháp thân hiển hiện, khởi dụng huân tập, nên không có đoạn.
Giải thích :
Vì huân chân diệt vọng, tịnh dụng vô tận.
Sau là giải thích để hiển nghĩa ‘đại’ trong môn sinh diệt. Trong đó có hai : Trước là giải thích thể đại và tướng đại. Sau là giải thích riêng về dụng đại. Trong phần thể đại và tướng đại cũng có hai : Trước là tổng nêu. Sau là giải thích riêng hai nghĩa đại. Trong phần nghĩa cũng có hai. Trước, nói về thể đại.
Chánh văn :
Tướng tự thể chân như : Tất cả Phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và chư Phật không có tăng giảm, không có mé trước sinh, không có mé sau diệt, rốt ráo thường hằng.
Giải thích :
Người, tuy ngay nơi vị mà phân ưu liệt, nhưng chân thể theo người chưa từng tăng giảm, nên nói ‘không có tăng giảm’.
‘Không có mé … thường hằng’, hiển lý do không có tăng giảm. Không có mé trước sinh nên ‘thường’. Không có mé sau diệt nên ‘hằng’. Địa vị phàm phu là mé trước. Phật quả là mé sau.
Sau là giải thích tướng đại. Trong đó có hai : Trước, nói về tánh đức. Sau là hỏi đáp lập lại. Trong phần trước cũng có hai : Trước nói về đức tướng. Sau nói về lập danh. Trong phần đức tướng nói sau cũng có ba : Trước là tổng, kế là biệt, sau là kết.
Chánh văn :
Từ xưa đến nay, tự tánh đầy đủ tất cả công đức.
Giải thích :
Trong phần biệt sau có 6 câu.
Chánh văn :
Đó là, tự thể có : Nghĩa đại trí tuệ quang minh, nghĩa chiếu khắp pháp giới, nghĩa nhận biết chân thật, nghĩa tâm thanh tịnh tự tại, nghĩa thường lạc ngã tịnh, nghĩa thanh lương bất biến tự tại.
Giải thích :
‘Đại trí tuệ quang minh’, là cái sáng của trí bản giác.
‘Chiếu khắp pháp giới’, là bản giác hiển chiếu các pháp.
‘Nhận biết chân thật’, là khi hiển chiếu thì không co điên đảo.
‘Tâm thanh tịnh tự tại’, là tánh lìa hoặc nhiễm.
‘Thường lạc ngã tịnh’, là nghĩa tánh đức viên mãn.
‘Thanh lương bất biến tự tại’, là tánh đức không thay đổi.
Chánh văn :
Như vậy có đầy đủ quá hằng hà sa Phật pháp chẳng lìa, chẳng đoạn, chẳng khác, chẳng thể nghĩ bàn, cho đến đầy đủ không thiếu nghĩa nào, nên gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là pháp thân Như Lai.
Giải thích :
Tánh đức nhiều như cát bụi, không lìa chân thể, nên nói ‘chẳng lìa’. Tương tục từ vô thủy, nên nói ‘chẳng đoạn’, cũng có thể nói là ‘trị đạo chẳng mất’. Đồng một vị với chân thể nên ‘không khác’. Không khác nhưng có các nghĩa như cát sông hằng, nên nói ‘chẳng thể nghĩ bàn’. Chỉ có Phật mới thấu đạt tận cùng, nên nói ‘Phật pháp’, đây cũng chỉ cho pháp sở giác.
Nếu chân thể này không có tánh đức thì Như Lai chứng đó rồi không nên có đầy đủ công đức. Đã chứng tánh rồi, vạn đức đầy đủ thì nghiệm được rằng chân như vốn đầy đủ hằng sa các công đức, nên nói ‘đầy đủ không thiếu nghĩa nào’.
Sau, lập ra hai danh. Khi ẩn thì hay xuất sinh Như Lai nên, gọi là Như Lai tạng. Khi hiển thì vạn đức y chỉ, gọi là pháp thân. Sẽ nói lại ở phần sau. Trong đó có hai : Trước, là nạn vấn chấp thể nghi tướng. Sau trả lời, tướng không trái thể.
Chánh văn :
Hỏi : Trên nói, thể chân như bình đẳng lìa tất cả tướng, sao đây lại nói có mọi thứ công đức như thế?
Đáp : Tuy thật có các nghĩa công đức mà không có tướng sai biệt, đẳng đồng một vị, chỉ là chân như. Nghĩa ấy thế nào? Bởi do không phân biệt, lìa tướng phân biệt, cho nên không hai.
Giải thích :
Phần đáp có hai : Trước nói tuy sai biệt mà không hai. Sau, tuy không hai mà có sai biệt (Nói ở văn sau).
‘Sai biệt mà không hai’ có hai : Trước nói, thật đức tuy nhiều mà đồng một vị. Kế là giải thích ‘không hai’.
‘Do không phân biệt’, là không có năng phân biệt. ‘Lìa tướng phân biệt’, là không có sở phân biệt. Không có năng sở phân biệt cho nên ‘không hai’.
Sau là phần ‘không hai mà có sai biệt’. Trước nói lược, sau nói rộng.
Chánh văn :
Lại do nghĩa gì mà nói sai biệt? Vì y nơi tướng nghiệp thức sinh diệt mà nói.
Giải thích :
Trong phần lược nghi rằng : Đã nói không hai vì sao còn nói sai biệt?
Giải thích : Vì y nơi hằng sa nhiễm pháp thuộc thức tướng sinh diệt mà nói. Ngược với đó mà hiển thị tịnh đức của chân như có hằng sa sai biệt. Vì là gốc của nhiễm pháp nên nói là nghiệp thức.
Chánh văn :
Vì sao nói vậy? Vì tất cả pháp xưa nay chỉ là tâm, thật không có niệm, mà có vọng tâm, bất giác khởi niệm, thấy các cảnh giới, nên nói vô minh. Tâm tánh không khởi tức là nghĩa đại trí tuệ quang minh.
Giải thích :
‘Vì tất cả … có niệm’, là nêu ra cái lý bị mê. ‘Mà có vọng tâm …’, là y nơi chân khởi vọng, là bản và mạt bất giác thuộc nhiễm tâm thô và tế.
Muốn giải thích cái tịnh thì trước phải nêu ra cái nghịch là nhiễm, dùng đó để hiển. Các câu sau là liệt kê. Hiển thế nào? Vì tướng của tâm là niệm khởi, là bất giác vô minh. Biết ‘tâm tánh không khởi’, là bản giác trí minh, nên nói ‘Đại trí tuệ quanh minh’.
Chánh văn :
Nếu tâm khởi thấy thì có tướng chẳng thấy. Tâm tánh lìa thấy tức là nghĩa chiếu khắp pháp giới.
Giải thích :
‘Nếu tâm khởi thấy …’, là nói vọng thấy thì không trùm khắp. ‘Tâm tánh lìa thấy’, là nói chân thì chiếu sáng khắp cả.
Chánh văn :
Nếu tâm có động thì không phải là sự hiểu biết chân thật. không có tự tánh.
Giải thích :
‘Nếu tâm có động …’, là nói vọng thức thì nhận thức điên đảo. Nghịch lại với đó tức hiển bày nếu là chân thì không có điên đảo. ‘Không có tự tánh’, là nói nhiễm thì không có thể. Nghịch lại đó, chính là hiển tự tánh tâm thanh tịnh.
Chánh văn :
Chẳng phải thường, chẳng phải lạc, chẳng phải ngã, chẳng phải tịnh, nhiệt não suy biến thì chẳng tự tại.
Giải thích :
‘Chẳng phải thường …’, là nói về một cái mất của vọng. Nghịch lại đó là hiển bốn đức của chân như. Các hoặc thiêu đốt tâm là nhiệt não nhất, nên nói chân như là thanh lương. Vọng nhiễm biến đổi là tướng suy biến thì hiển chân như nghịch lại là bất biến. Vì nghiệp quả trói buộc không tự tại nên hiển chân như là tự tại. Văn trên nói ‘nghĩa thanh lương bất biến tự tại’ là đó.
Chánh văn :
Cho đến có đủ vô lượng nghĩa vọng nhiễm. Đối lại với nghĩa ấy là tâm tánh bất động thì có vô lượng các tướng công đức thanh tịnh thị hiện.
Giải thích :
‘Cho đến …’, là tổng nêu vọng nhiễm nhiều vô kể. Đối nghịch với đó là tâm tánh bất động, chính là ‘vô lượng các tướng …’.
Chánh văn :
Nếu tâm có khởi lại thấy các pháp hiện trước có thể niệm, thì có chỗ thiếu. Như vậy vô lượng công đức tịnh pháp tức là nhất tâm, hoàn toàn không có chỗ niệm, cho nên đầy đủ, gọi là pháp thân như Lai tạng.
Giải thích :
‘Nếu tâm có khởi …có chỗ thiếu’ là vọng tâm ngoại niệm, tìm nó chẳng đủ. ‘Như vậy…’, là nói tánh đức thanh tịnh đầy đủ không mượn cầu bên ngoài. Phần kết danh có thể tự hiểu.
Sau là nói về dụng đại. Có hai : Trước là tổng nêu. Sau là biệt giải thích. Cũng có hai : Trước là đối quả để nêu nhân. Sau là hỏi nhân để hiển quả.
Chánh văn :
Lại nữa, dụng chân như là, chư Phật Như Lai khi còn ở tại nhân địa, phát đại từ bi, tu các ba la mật, nhiếp hóa chúng sinh.
Giải thích :
Nêu bản chánh hạnh.
Chánh văn :
Lập đại thệ nguyện muốn độ thoát hết thảy chúng sinh trong các cõi, không giới hạn kiếp số, đến cùng tận vị lai.
Giải thích :
Nêu bản đại nguyện : Trước là tâm quảng đại, kế là tâm trường viễn.
Chánh văn :
Vì coi tất cả chúng sinh như thân mình mà cũng không nắm giữ tướng chúng sinh. Nghĩa ấy thế nào? Vì như thật biết tất cả chúng sinh cùng với thân mình, chân như bình đẳng không có sai khác.
Giải thích :
‘Vì coi … chúng sinh’, là nêu đại phương tiện bi và trí. Đó không phải là tâm điên đảo. Trong đó, ‘coi tất cả chúng sinh như thân mình’ là hiển bi thâm sâu, cũng giải thích do đâu tâm phải trường viễn. ‘Không nằm giữ tướng chúng sinh’ là trí thâm sâu. ‘Nghĩa ấy thế nào?’ là hỏi do đâu có bi trí thâm sâu nói trước. ‘Vì như thật biết…’ là y nơi môn chân như mà đáp hiển cái thâm sâu.
Sau là lặp nhân hiển quả. Có ba :
Chánh văn :
Vì có trí đại phương tiện như vậy.
Giải thích :
Đầu tiên là lặp lại cái nhân nói trên.
Chánh văn :
Trừ diệt vô minh thấy pháp thân mình.
Giải thích :
Kế, là cái quả tự lợi.
Chánh văn :
Tự nhiên có mọi thứ dụng của nghiệp không thể nghĩ bàn, liền cùng chân như đồng khắp tất cả chỗ. Lại cũng không có tướng dụng có thể được. Vì sao? Vì thân của chư Phật Như Lai chỉ là thân trí tướng pháp thân đệ nhất nghĩa đế, không có cảnh giới thế đế, lìa hành tác, chỉ tùy chúng sinh thấy nghe mà được lợi ích, nên nói là dụng.
Giải thích :
Đây là cái quả lợi tha. Có ba câu :
. ‘Tự nhiên … nghĩ bàn’, là dụng thậm thâm không đợi phải tác ý. Như Nhiếp Luận nói : «Như trống trời ma-ni vô tư mà thành tự sự…».
. ‘Liền cùng … tất cả chỗ’, là nói về dụng quảng đại. Vì là cái dụng xứng lý.
. ‘Lại cũng …’, là dụng mà thường tịch. Trong đó, ‘Vì sao ?’ là hỏi rằng : Phật có đủ ba thân, sao lại nói không có tướng dụng? Giải thích rằng : Nếu phế bỏ cơ cảm thì Như Lai chỉ là diệu lý bản trí, hoàn toàn không có tướng thế đế sinh diệt là ứng hóa. Chỉ tùy duyên khởi dụng. Dụng tức là vô dụng. Như sóng là nước mà dụng thì hằng tịch diệt. Kinh Niết Bàn nói : «Thân này hiện nay của ta chính là pháp thân». Lương Nhiếp Luận nói: «Chỉ như như và trí như như là độc tồn, gọi là pháp thân», nên nói ‘Vì chư Phật Như Lai … lìa hành tác’.
Tuy chân lý diệu trí xưa nay thường trạm nhiên nhưng tùy cơ cảm mà ích dụng vô biên, nên tịch mà thường dụng, vì thế nói ‘Chỉ tùy chúng …’.
Trong phần giải thích biệt dụng có hai : trước là nêu sau là giải thích. Trong phần giải thích cũng có hai : Trước là hiển tướng dụng. Sau, hỏi đáp để giải nghi. Trong phần hiển tướng dụng cũng có hai : Trước, hiển thẳng dụng ấy. Sau, lặp lại phân biệt. Trong phần hiển thẳng dụng ấy cũng có hai : Trước, nói về ứng thân. Sau, nói về báo thân.
Chánh văn :
Dụng này có hai. Thế nào là hai :
1. Sở kiến của tâm phàm phu và Nhị thừa, y nơi phân biệt sự thức, gọi là ứng thân. Vì không biết do chuyển thức hiện, nên thấy từ ngoài đến, nhận lấy phần hạn của sắc nên không thể biêt hết.
Giải thích :
Phàm phu và Nhị thừa chưa biết duy thức, chấp có ngoại trần. Đó là nghĩa ‘phân biệt sự thức’. Nay thấy Phật thân cũng ngoài tâm, thuận với sự thức phân biệt kế độ thức,[12] nên nói là ‘y phân biệt sư thức’ mà thấy. Cũng có thể hạng này tuy giác thức thứ sáu mà không giác biết thức thứ bảy và tám, nên chỉ y nơi sự thức. Y nơi thức thô này mà phân biệt Phật thân nên chỉ thấy được tướng thô là ứng hóa thân mà không thấy được tướng tế là báo thân, nên nói ‘gọi là ứng thân’.
‘Vì không biết chuyển thức hiện …biết hết’, là giải thích vì sao thấy tướng thô. Mê đối với ‘duy tâm’ nên nói ‘từ ngoài’, không hiểu ngay sắc là tâm, không có phần hạn nên nói ‘nhận lấy phần hạn của sắc nên không thể biết hết’.
Hỏi : Phật thân vì sao chỉ là thức của chúng sinh?
Đáp : Chân tâm của chúng sinh cùng với thể của chư Phật bình đẳng không hai. Chỉ vì chúng sinh mê tự chân lý, khởi vọng niệm, là khi chân như chỉ hiện nhiễm tướng chẳng hiện dụng của nó. Vì bản giác nội huân vọng tâm nên có chán và cầu. Có chán và cầu nên chân dụng liền hiển. Chán cầu kém thì tướng dụng thô. Chán cầu dần tăng thì dụng cũng dần tế. Dần dần như thế cho đến nguồn tâm, vô minh đã hết, chán cầu đều mất, thủy giác đồng với bản giác, dụng lại về thể, bình đẳng bình đẳng. Chưa đến nguồn tâm thì dụng trở lại[13] trong thức, tùy cơ mà hiển hiện, nên nói trong thức mà hiện.
Hỏi : Nếu y cứ vào nghĩa này, dụng là từ chân mà khởi, sao lại nói từ chuyển thức hiển?
Đáp : Chuyển thức tức là chuyển tướng trong A lê da. Y nơi chuyển tướng này mới khởi hiện thức, hiện các cảnh giới. Thức này chính là chân vọng hòa hợp. Nếu theo dòng sinh tử thì vọng có công năng. Vọng tuy có công nhưng lìa chân thì chẳng lập được. Nếu phản lưu xuất triền thì chân có công năng, chân tuy có công, lìa vọng thì chẳng hiển. Nên ngay nơi thức hòa hợp duyên khởi mà nói dụng của nó.
Hỏi : Nếu y cứ vào nghĩa này, thì đó là dụng chân như trong tự tâm của chúng sinh, sao lại nói là báo hóa Phật?
Đáp : Chân tâm của chúng sinh chính là thể của chư Phật, hoàn toàn không có sai biệt. Kinh Hoa Nghiêm nói: «Nếu người muốn cầu biết tất cả chư Phật trong ba đời, cần phải quán như vầy ‘Tâm tạo các Như Lai». Kinh Bất Tăng Bất Giảm cũng nói: «Pháp thân tức là chúng sinh. Chúng sinh tức là pháp thân. Pháp thân cùng chúng sinh, nghĩa đồng mà danh khác». Đã từ pháp thân khởi dụng hóa và báo thân, sao chẳng thể là chân tâm của chúng sinh?
Hỏi : Nghĩa nếu như thế thì Phật trong tâm chúng sinh lại tự giáo hóa chúng sinh, sao lại nói là lực bi nguyện của chư Phật?
Đáp : Chân tâm đó là bi nguyện của Phật. Nghĩa là, vô duyên đại bi và tự thể không có chướng ngại nguyện v.v… là tánh khởi đại dụng.
Hỏi : Chúng sinh đã có tâm từ vô thủy, sao không sớm khởi hóa dụng khiến diệt vô minh?
Đáp : Vì chưa có chán và cầu.
Hỏi : Vốn đã có bản giác, sao không sớm huân khiến khởi chán và cầu?
Đáp : Vô minh dày mỏng chẳng đồng, nhân duyên bổ khuyết không như nhau, nên như trên đã nói.
Hỏi : Chân tâm tức là Phật, sao văn sau nói ‘Từ cái nhân của các ba la mật v.v… sinh’ ?
Đáp : Đây ứng vào nghĩa bản giác tùy duyên mà nói. Nhưng khi thủy giác giác đến nguồn tâm thì một mé bình đẳng, có gì sai biệt?
Từ trên đến đây là ứng vào Chung giáo mà nói. Nếu ứng vào thủy giáo mà nói thì vì bi trí của chư Phật làm tăng thượng duyên, chủng tử cơ cảm của chúng sinh làm nhân duyên nên nương vào bản chất Phật trên, tự tâm biến hình tượng, nên nói tại trong tự thức mà hiện. Còn lại như Du già, Duy thức v.v… đã nói.
Trong phần báo thân sau có ba : Trước là ứng vào thức mà nêu người. Kế, nói về sở kiến là báo tướng. Sau, kết quả do nhân, giải thích để hiển cái tên báo thân.
Chánh văn :
2. Sở kiến của tâm Bồ tát từ sơ phát ý cho đến cứu cánh địa, y nơi nghiệp thức, gọi là báo thân.
Giải thích :
‘Y nơi nghiệp thức’, là bồ tát Thập giải trở đi, hiểu các trần không ngoài duy thức. Thuận với nghĩa nghiệp thức mà thấy Phật thân, nên nói báo thân.
Trong phần sở kiến là báo thân, có hai. Trước là chánh báo. Sau là y báo.
Chánh văn :
Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng tướng hảo. Chỗ trụ y nơi quả cũng có vô lượng các thứ trang nghiêm, tùy chỗ mà thị hiện, không có bờ mé, chẳng thể cùng tận, lìa tướng phần hạn, tùy chỗ cảm ứng, thường hay trụ trì, chẳng hủy, chẳng mất.
Giải thích :
‘Thân có vô lượng … tướng hảo’, là nói về chánh báo. Vì thân không có phần hạn nên nói ‘vô lượng sắc’. Y nơi thân mà có tướng, nên tướng cũng vô biên. Y nơi tướng mà có hảo nên hảo cũng vô biên. Song ‘tướng’ là biểu trưng cho đức, khiến người kính đức mà niệm Phật. ‘Hảo’ là để nghiêm thân, khiến người ưa thích muốn thân gần.
‘Chỗ trụ y nơi quả …’, là nói về y báo. ‘Vô lượng các thứ trang nghiêm’ là năng y vô biên. Quốc độ sở y do đó cũng vô biên. Các báu thù thắng như phả chí kha v.v… thường phóng quang minh vô ngại trang sức nên nói ‘các thứ trang nghiêm’.
‘Tùy chỗ thị hiện …không có phần hạn’, khác với phần hạn sắc của hóa thân nói trên. Do Bồ tát này biết phần hạn là không phần hạn, mỗi một sắc tướng đều trùm khắp pháp giới, dung nhau vô ngại, tự tại khó nghĩ bàn.
‘Tùy chỗ cảm ứng …chẳng mất’, là tùy nghiệp hạnh của người cảm mà ứng, đều thường trụ. Không phải là chỗ tam tai có thể phá hoại.
Chánh văn :
Công đức như thế đều nhân nơi các hạnh vô lậu ba la mật huân tập và sự huân tập không thể nghĩ bàn mà được thành tựu, đầy đủ vô lượng tướng lạc nên nói báo thân.
Giải thích :
Đây là nói về nhân. Chánh báo và y báo vô chướng ngại là việc khó nghĩ bàn, đều nhân nơi hai cái nhân là thâm hạnh thập độ huân và bản giác bất tư nghị huân mà được thành tựu. Tướng lạc viên mãn nên gọi là báo thân. Vì thế nói : ‘Công đức như thế …’.
Trong phần phân bệt sau có hai : Trước nói về ứng thân. Sau, nói về báo thân. Trong phần nói về ứng thân, phân biệt phàm phu và Tiểu thừa.
Chánh văn :
Lại, sở kiến của phàm phu là sắc thô, tùy lục đạo mà thấy các thứ dị loại không đồng, không phải là tướng thọ lạc, nên nói là ứng thân.
Giải thích :
Như tập khí ở ba ác đạo, thấy thân Phật dài ba thước như chân voi đen. Như Đề Vi v.v… ở địa vị trời người thấy Phật là thân thần cây và thân thiên thần v.v… Y theo đó thì biết chúng sinh ở lục đạo thấy Phật không đồng, đều không phải là tướng xuất thế, nên ‘không phải là tướng thọ lạc’. Hàng Nhị thừa thấy Phật xuất thế, là thân thánh nhân A la hán, nên nói ‘Sở kiến … ứng thân’.
Trong phần báo thân nói sau, sẽ so biệt chỗ chứng có khác. Có hai : Trước nói về sở kiến của hàng Bồ tát chưa đăng địa. Sau, là của hàng Bồ tát đăng địa.
Chánh văn :
Lại nữa, Sở kiến của hàng Bồ tát sơ phát ý là do thâm tín pháp chân như mà thấy được ít phần. Biết sắc tướng và các sự trang nghiêm ấy không có đến đi, lìa phần hạn, chỉ y tâm hiện, chẳng lìa chân như. Song vị Bồ tát này còn tự phân biệt, vì chưa nhập được vị pháp thân. Nếu được tâm thanh tịnh thì sở kiến vi diệu, dụng của họ trở nên thù thắng, cho đến Bồ tát địa tận thấy được cứu cánh. Nếu lìa nghiệp thức thì không có kiến tướng, vì pháp thân chư Phật không có sắc tướng đây kia đắp đổi qua lại mà thấy.
Giải thích :
‘Thâm tín …ít phần’, là hàng Bồ tát Thập giải y nơi môn tỉ quán mà thấy lý chân như. Tướng này tợ giác nên nói ‘ít phần’. Khác với Thập tín trước, nên nói ‘thâm’. Khác với cái ‘chứng chân’ sau, nên nói là ‘tín’.
‘Biết các sắc tướng … lìa phần hạn’, vì thấy chân như khác với phàm phu và Tiểu thừa thấy, nên biết được sắc tướng và các sự, tánh không phân biệt.
‘Chỉ y tâm hiện, chẳng lìa chân như’, là giải thích vì sao nói vô phân biệt. Trong Nhiếp Luận, Bồ tát đăng địa thấy báo thân là y cứ vào chỗ chứng tương ưng thành tựu mà nói. Nay hàng Bồ tát chưa đăng địa thấy được ít phần vì biết sắc cảnh chỉ là hiện thức, chẳng lìa chân như, tức không có phần hạn, nên chỉ ‘thấy được ít phần’. Đã không phải là cái thấy toàn triệt nên chẳng trái nhau. Chỉ vì khác với phàm phu vào Tiểu thừa, ngoài tâm thủ cảnh mà thấy ứng hóa thân, nên ứng vơi lý duy tâm, chỉ thấy được ít phần.
‘Hàng Bồ tát này còn tự phân biệt’, là để phân biệt với hàng Bồ tát đăng địa.
‘Nếu được tâm thanh tịnh …’, là hiển bày sở kiến, tướng và dụng của hàng Bồ tát đăng địa hơn hàng Bồ tát chưa đăng địa, nên nói ‘trở nên thù thẳng’. Dần dần vi tế cho đến Hậu Kim Cang, nghiệp tướng đều hết, dụng liền qui thể, nên nói ‘thấy cứu cánh’, vì đã tận nguồn.
‘Nếu lìa nghiệp tướng thì không có kiến tướng’, vì y nơi nghiệp thức mà có chuyển tướng và hiện tướng.
‘Vì pháp thân chư Phật không có …’ là, nếu lìa nghiệp thức thì vô minh chỉ là chân như, nên Phật không có cái thấy phân biệt bỉ thử.
Trong phần trừ nghi nói sau có hai : Trước hỏi sau đáp.
Chánh văn :
Hỏi : Nếu pháp thân chư Phật lìa sắc tướng, vì sao lại hiện sắc tướng?
Giải thích :
Trong phần đáp có hai : Trước giải thích pháp thân năng hiện. Sau, giải thích sắc sở hiện. Trong phần giải thích pháp thân năng hiện cũng có hai : Trước là tổng. Sau là biệt.
Chánh văn :
Đáp : Pháp thân này là thể của sắc nên hay hiện sắc. Nghĩa là, từ xưa đến nay, sắc và tâm chẳng phải hai. Vì sắc tánh tức là trí, nên thể của sắc không hình, gọi là trí thân. Vì trí tánh tức là sắc, nên gọi là pháp thân trùm khắp tất cả chỗ.
Giải thích :
‘Từ xưa đến nay sắc và tâm chẳng phải hai’, là sắc báo thân và hóa thân hiện ra đó không khác pháp thân chân tâm. Như sóng và nước xưa nay không hai.
‘Vì sắc tánh tức là trí’, là nói sắc tức là tâm, hiển cái ‘chẳng phải hai’ vừa nói. Vì sắc tức là tâm nên khiến sắc tướng đều hết. Ngay nơi gốc mà chỉ nói là trí thân. Trí là bản giác tâm trí.
‘Vì trí tánh tức là sắc …’, là nói tâm tức là sắc, hiển cái ‘chẳng phải hai’ nói trên’. Như nước có khắp trong tất cả sóng.
Chánh văn :
Sắc sở hiện không có phần hạn, tùy tâm hay hiện mười phương thế giới, vô lượng Bồ tát, vô lượng báo thân, vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi sai biệt, đều không có phần hạn, mà không ngăn ngại lẫn nhau. Đây chẳng phải là chỗ thức tâm phân biệt có thể biết, vì là dụng của chân như tự tại.
Giải thích :
Trong phần sắc sở hiện, vì chân tâm trùm khắp vô ngại, sắc sở hiện cũng lại viên dung, tự tại, vô ngại nên nói ‘Sắc sở hiện …lẫn nhau’.
‘Vô lượng Bồ tát’, là tác dụng báo thân. Cũng là cơ duyên đại dụng cảm báo thân,[14] đều có thể ứng tức khắc. Vì mỗi căn đều trùm khắp pháp giới nhưng chẳng trái nhau. Dụng của chân như này không phải là chỗ mà vọng thức có thể biết, nên nói ‘Đây chẳng phải …’.
Giải thích xong phần lặp lại về pháp và nghĩa trong môn sinh diệt. Trước, giải thích môn chân như. Kế giải thích môn sinh diệt. Giải thích hai môn để hiển nghĩa ‘chẳng phải một’ xong. Sau giải thích hai môn tương đối, hội tướng nhập thật, hiển nghĩa ‘chẳng phải khác’. Trong đó có ba : Trước, là tiêu đề. Kế, là giải thích. Sau, là tổng kết lại.
Chánh văn :
Lại nữa, hiển thị từ môn sinh diệt ngay đó mà nhập môn chân như. Nghĩa là, truy tìm ngũ ấm, sắc và tâm, cùng cảnh giới sáu trần rốt ráo đều vô niệm. Vì tâm không có hình tướng, tìm khắp mười phương chẳng thể được.
Giải thích :
‘Truy tìm ngũ ấm …tâm’ là, trong ngũ ấm thì sắc ấm là sắc, bốn thứ còn lại thuộc tâm.
Trong phần giải thích, trước là hiển sắc pháp. Lục trần vô niệm là cảnh từ tâm mà khởi. Rốt ráo không thể. lìa ngoài tâm thì không thể niệm tướng. ‘Vì tâm không có hình tướng …’, không phải là ngoài chân tâm không riêng có các sắc lục trần v.v…mà ngay trong tâm, tìm hình chất của sắc v.v…cũng không thể được. Trước là sở duyên vô tướng. Đây là năng duyên chẳng sinh.
Sau là quán tâm pháp. Trước là dụ. Sau là hợp
Chánh văn :
Như người mê cho đông là tây mà phương hướng thật chẳng dời đổi. Chúng sinh cũng như vậy. Vì vô minh mà lầm nên cho tâm là niệm, tâm thật chẳng động.
Giải thích :
Trong phần hợp, nói ‘tâm thật không động’ là truy tìm động niệm. Diệt rồi chưa sinh, trong đó vô sở trụ. Vô sở trụ nên không có khởi, nên tâm tánh thật chẳng động.
Chánh văn :
Nếu hay quán sát biết tâm vô niệm thì được tùy thuận nhập môn chân như.
Giải thích :
Đây là kết.
‘Được tùy thuận’ là phương tiện quán.
‘Nhập chân như môn’ là chánh quán.
Phần Hiển Thị Chánh Nghĩa xong. (xong phần 4)
[2] Vương số : Tâm vương và tâm sở
[5] Tự, chỉ cho mình. Tha, chỉ cho chúng sinh.
[7] Tam tụ giới : 1/ Nhiếp luật nghi giới : Thọ trì các giới đã thọ. 2/ Nhiếp thiện pháp giới : Lấy việc tu hành các thiện giới làm luật nghi. 3/ Nhiếp chúng sinh giới : Lấy việc lợi ích hữu tình làm luật nghi.
[9]Do so sánh mà biết không phải chính tự thấy.
[11] Là câu hỏi: “Đều đồng huân tập vì sao có tin và không tin …”
Các tin khác
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (31/03)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (1) (31/03)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (2) (31/03)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (3) (31/03)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (5) (31/03)