Đại thừa khởi tín luận nghĩa ký (Hiền Thủ)
ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (3)
Bao gồm các phần : GIẢI THÍCH (tt) - 4 không kính - 9 tướng Bất giác - Nhân duyên sinh diệt - 5 loại thức. .
31/03/2017
Quyển 3
PHẦN GIẢI THÍCH (tiếp theo)
Sau là giải thích bản giác. Bản giác có hai : Trước nói về tùy nhiễm bản giác. Sau từ bốn kinh trở đi nói về tánh tịnh bản giác. Từ trên đến đây tổng nêu giác thể. Văn đây nói về giác tướng. Bốn kính nói cả về thể và tướng.
Trong phần tùy nhiễm bản giác có ba phần : Trước, tổng nêu. Kế, liệt kê danh. Sau, nói về tướng.
Chánh văn :
Lại nữa, bản giác tùy nhiễm sinh hai thứ tướng, cùng với bản giác đây chẳng tách lìa nhau.
Giải thích :
‘Sinh hai thứ tướng’, là đang tại tùy động môn, nên nói ‘sinh’. Sinh đã không lìa môn giác thể bất động nên nói ‘cùng với bản giác …’
Chánh văn :
Thế nào là hai? Một là trí tịnh tướng. Hai là bất tư nghì nghiệp tướng.
Giải thích :
Nói ‘Trí tịnh tướng’ là nói tướng bản giác theo nhiễm hoàn tịnh. Nói ‘Bất tư nghì nghiệp tướng’ là nói tướng nghiệp dụng của bản giác hoàn tịnh. Hai tướng đó nếu lìa nhiễm duyên thì chẳng thể thành, nên nói tùy nhiễm.
Nói về tướng thì trong đó có hai. Trước là nói về trí tịnh. Trong đó cũng có hai. Trước, nói thẳng tịnh tướng. Sau, hỏi đáp là giải thích thành. Trong phần trước cũng có hai, trước là nhân, sau là quả.
Chánh văn :
Trí tịnh tướng là, y nơi pháp lực huân tập, như thật tu hành, đầy đủ phương tiện.
Giải thích :
Trong nhân, ‘Y nơi pháp lực huân tập’ là lực huân của chân như và lực huân của ngoại duyên, là giáo pháp sở lưu. Đây là trước khi đăng địa. Y nơi lực huân này mà tu tập tư lương gia hạnh thiện căn. Đăng địa trở đi, hạnh khế hợp với chứng như, nên nói ‘như thật tu hành’. Thập địa là hạnh duyên nên nói ‘đầy đủ phương tiện’. Đây là chỗ tối cùng của Kim cang nhân vị.
Chánh văn :
Phá tướng thức hòa hợp, diệt tâm tương tục, hiển hiện pháp thân, trí thuần tịnh.
Giải thích :
Trong quả có hai, trước là đoạn quả, sau là trí quả. Do phương tiện nói trên, có thể phá tướng sinh diệt trong thức hòa hợp, hiển tánh bất sinh diệt của nó. Căn bản vô minh hết nên tâm không có chỗ hợp, tức là hiển cái nghĩa bản giác pháp thân. Vào lúc đó có thể diệt được các tướng tương tục của nghiệp tướng trong nhiễm tâm mà không diệt tâm thể tương tục. Nay tâm tùy nhiễm bản giác cuối cùng đã trở về nguồn thành viên trí thuần tịnh, thành tựu nghĩa thủy giác ứng thân. Song thủy giác không có khởi riêng, chính là bản giác tùy nhiễm tạo ra. Nay nhiễm duyên đã dừng, thủy giác đồng lại với bản giác, nên nói ‘thuần tịnh’.
Trong phần giải thích nghi, trước hỏi sau đáp. Trong phần hỏi, chấp chân như vọng lìa. Sau, phân biệt vọng khác chân mà đáp.
Chánh văn :
Nghĩa ấy thế nào ?
Giải thích :
Ý hỏi rằng : Như trên đã nói ‘Động tâm tịnh kia mà thành khởi diệt’, nay đã hết sinh diệt, nên diệt luôn tịnh tâm, nên nói ‘nghĩa ấy thế nào?’.
Trong phần đáp, pháp và dụ hợp lại có ba.
Chánh văn :
Vì tất cả tướng của tâm thức đều là vô minh. Tướng vô minh chẳng lìa giác tánh, chẳng thể hoại chẳng phải chẳng thể hoại.
Giải thích :
Ý đáp rằng : các nhiễm tâm như nghiệp v.v…, gọi là tướg các thức. Các thứ này đều là tướng bất giác, nên nói ‘tướng tâm thức đều là vô minh’, không phải ứng vào tâm thể mà nói.
Lại chuyển qua hỏi rằng : Đã nói tướng các thức đều là vô minh, nên nói diệt, thì nên riêng có thể tánh lìa khỏi chân như, tức cho chân và có thể riêng, nên hỏi.
Đáp : Các thức như thế là tướng bất giác không lìa tánh tùy nhiễm bản giác, nên nói ‘chẳng lìa giác tánh’. Tướng vô minh này cùng với bản giác kia chẳng phải một chẳng phải khác. Chẳng phải khác, nên ‘chẳng thể hoại’. Chẳng phải một, nên ‘chẳng phải chẳng thể hoại’.
Nếu y nơi nghĩa ‘Chẳng phải khác nên chẳng thể hoại’, thì nói vô minh tức là minh. Kinh Niết Bàn nói : «Minh cùng với vô minh, tánh của chúng không hai. Tánh không hai chính là thật tánh» .
Nếu y nơi nghĩa ‘Chẳng phải một nên chẳng phải chẳng thể hoại’ thì nói vô minh diệt, giác tánh chẳng hoại. Nghĩa ‘diệt hoặc’ cứ y theo đó mà hiểu.
Trong phần dụ có bốn câu.
Chánh văn :
Như nước biển cả, nhân nơi gió mà dậy sóng. Tướng nước tướng gió không lìa nhau mà tướng nước không phải là tánh động. Nếu gió dừng thì tướng động ắt diệt, tánh ướt chẳng hoại
Giải thích :
Câu đầu là dụ cho chân theo vọng mà chuyển. ‘Nước và gió chẳng lìa nhau’, là dụ cho chân và vọng nương nhau.
‘Nước không phải là tánh động’ dụ cho chân thể không thay đổi. Đây là hiển động không có tự tánh, chỉ do chỗ khác mà động.
‘Nếu gió dừng …” dụ cho vọng ngừng chân hiển. Đây để hiểu, nếu động có tự tánh thì khi tướng động diệt, tánh ướt diệt theo, nhưng chỉ theo chỗ khác mà động. Tướng động diệt thời tánh ướt chẳng hoại.
Chánh văn :
Tự tánh thanh tịnh tâm của chúng sinh cũng như vậy, nhân nơi gió vô minh mà động, tâm cùng với vô minh đều không hình tướng, chẳng tách lìa nhau, mà tâm không phải là tánh động. Nếu vô minh diệt thì tương tục ắt diệt mà trí tánh chẳng hoại.
Giải thích :
Đầu tiên, tịnh tâm hợp với biển. ‘Nhân vô minh động’, là hợp với gió, làm nước động thành sóng. Vì nước chẳng thể tự dậy sóng. Cần y nơi gió mới dậy sóng. Gió cũng chẳng thể tự hiện tướng động. Cần phải y nơi nước mới có tướng động. Cho nên, động tức là nước. Động không có thể riêng.
‘Đều không có hình tướng, chẳng lìa nhau’ là hợp tương y. Vì ướt đều là động, nên không có tướng nước. Vì động đều là ướt nên không có tướng gió. Tâm pháp cũng như vậy. Chân tâm theo sự huân tập mà làm thành sóng thức, nên không có tướng tâm, nhưng sóng thức kia không gì không phải chân, nên không có tướng vô minh. Nhiếp Luận nói: “Thấy đây chẳng thấy kia …”. Lại nói: “Nếu thấy một phần, phần còn lại tánh chẳng khác …”. Lại nói: “Là niết bàn nên chẳng thấy sanh tử”. Phần Thù Thắng đệ nhị của Nhiếp Luận sau, sẽ nói rộng.[1]
‘Tâm không phải là tánh động’ là hợp với ‘nước chẳng phải là tánh động’. ‘Vô minh diệt’, là căn bản vô minh diệt, hợp với gió diệt. ‘Tương tục diệt’ là nghiệp thức v.v… diệt, hợp với tướng động diệt. ‘Trí tánh chẳng hoại’, là tánh chiếu xét của bản giác tùy nhiễm, hợp với tánh ướt chẳng hoại.
Trong phần bất tư nghì nghiệp sau có hai : Trước nêu sau giải thích. Trong phần giải thích cũng có hai.
Chánh văn :
Nghiệp tướng bất tư nghì là, y nơi trí tịnh tướng có thể tạo tất cả cảnh giới thắng diệu.
Giải thích :
Là cùng với chúng sinh tạo cảnh giới lục căn. Luận Bảo Tánh nói: “Chư Phật Như Lai, thân như hư không không tướng, vì các kẻ thắng trí tạo cảnh giới lục căn, thị hiện sắc vi diệu, xuất ra diệu âm thanh, khiến ngửi được giới hương của Phật, cùng với vị diệu pháp của Phật, cảm được tam muội xúc, khiến biết pháp thâm diệu nên gọi là diệu cảnh giới”.
Chánh văn :
Đó là vô lượng tướng công đức thường không đoạn dứt, tùy theo căn tánh của chúng sinh, tự nhiên tương ưng với mọi thứ mà hiện để được lợi ích.
Giải thích :
Có bốn câu :
1. Ngang thì hiển nghiệp đức rộng nhiều vô lượng.
2. Dọc thì hiển nghiệp căn thâm cùng mé vị lai.
3. Nghiệp thù thắng nên không công mà ứng cơ.
4. Hiển bày do nghiệp thù thắng nên lợi ích thấm nhuận chẳng hư dối.
Theo đó thì biết hai thân báo và hóa là đại dụng của chân như, vô thủy vô chung tương tục chẳng dứt. Kinh Kim Quang Minh nói: “Ứng thân, từ sinh tử vô thủy tương tục chẳng đoạn, tất cả pháp bất cộng của chư Phật hay nhiếp trì. Chúng sinh bất tận thì dụng cũng bất tận, nên nói thường trụ”. Luận Bảo Tánh nói: “Thế nào là thành tựu lợi ích tự thân? Là được giải thoát, xa lìa phiền não chướng và trí chướng, được pháp thân thanh tịnh không chướng ngại, nên gọi là thành tựu lợi ích tự thân. Thế nào là thành tựu lợi ích tha thân? Đã thành tựu được lợi ích tự thân rồi, từ vô thủy đến nay tự nhiên y nơi hai loại Phật thân, thị hiện hạnh lực tự tại ở thế gian, nên gọi là thành tựu lợi ích tha thân ”.
Hỏi : Trước phải được tự lợi rồi mới khởi tha nghiệp lợi ích, vì sao với lợi tha lại nói là vô thủy?
Đáp : Có hai cách giải thích :
1. Nhất niệm Như Lai trùm khắp ba đời, sở ứng vô thủy thì năng ứng vô thủy. Giống như nhất niệm viên trí thông khắp cảnh tam thế vô biên, cảnh vô biên nên trí vô biên. Trí vô biên là tướng sở hiện, nên được vô thủy cũng vô chung. Đây chẳng phải là chỗ suy lường của tâm thức, nên nói ‘nghiệp bất tư nghì’.
2. Vì vô minh hết, thủy giác chính là bản giác. Bản giác đó từ vô thủy đến nay khởi nghiệp dụng làm lợi ích chúng sinh, thủy giác đồng với đó nên cũng vô thủy. Vì tất cả Phật không có sai biệt, không có mới cũ, đều không có thủy giác khác. Bản giác bình đẳng vô thủy vô chung, thường giáo hóa chúng sinh, là dụng của chân như, nên nói nghiệp bất tư nghì. Dụng này của bản giác cùng với tâm chúng sinh xưa nay không hai, chỉ do bất giác theo dòng mà dụng không hiển, rồi theo vọng tâm chán cầu. Dụng ở tâm đó, xứng với căn hiển hiện mà không tác ý ngã hiện sai biệt, nên nói ‘theo căn tánh của chúng sinh tự nhiên tương ưng’. Không tác ý để hiện mà không gì là không lợi ích, nên nói ‘tương ưng với mọi thứ v.v…’.
Từ trên đến đây, nói về tướng bản giác tùy nhiễm xong. Từ đây trở đi nói về tánh tịnh bản giác. Đó là thể và tướng hợp lại mà nói. Trong đó có hai : Tổng nêu và biệt giải thích.
Chánh văn :
Lại nữa, tướng và thể của giác có bốn loại đại nghĩa cùng với hư không đồng, giống như kính tịnh trong.
Giải thích :
Vì hư không và kính đều có bốn nghĩa, nên lấy đó làm dụ.
1. Không kính : Là cái thể lìa tất cả ngoại vật.
2. Bất không kính : Thể của kính không gì là không hiện vật.
3. Tịnh kính : Mài trị lìa cấu uế.
4. Thọ dụng kính : Đặt trên đài cao, cần thì thọ dụng.[2]
Trong bốn thứ đó, hai thứ trước là tự tánh tịnh, hai thứ sau là lìa cấu mà tịnh. Lại, hai thứ đầu là ngay nơi nhân, khi còn ẩn mà nói. Hai thứ sau là ngay nơi quả, là nói khi đã hiển. Hai thứ trước là ứng vào không và bất không là hai. Hai thứ sau, ứng vào thể và dụng là hai. Lại, hai thứ đầu là thể, hai thứ sau là tướng, nên nói ‘tướng và thể của giác’. Lại, nghĩa một và ba là nghĩa hư không, nghĩa hai và bốn là nghĩa kính.
Trong phần biệt giải thích có bốn nghĩa
Chánh văn :
Thế nào là bốn? Một là như thật không kính.
Giải thích :
Trong chân như vọng pháp vốn không, không phải trước có sau không, nên nói ‘Như thật không’.
Chánh văn :
Xa lìa tất cả tướng cảnh giới của tâm, không pháp có thể hiện, không phải nghĩa giác chiếu.
Giải thích :
Đây là giải thích nghĩa không. Tâm điên đảo và vọng cảnh vốn chẳng tương ưng, nên nói ‘xa lìa’, không phải là có mà không hiện, chỉ vì lý của vọng pháp là không, nên không thể hiện. Như kính không phải không có khả năng hiện, chỉ vì sừng thỏ không có nên không thể hiện.
‘Chẳng phải nghĩa giác chiếu’, có hai nghĩa :
1. Từ vọng niệm nhìn về chân trí : Không có công giác chiếu. Vì tình chấp nghịch với lý. Như kính không phải là ngoại vật. Vì ngoại vật không có nghĩa chiếu dụng. Hiển trong gương không có tự thể của ngoại vật.
2. Từ bản giác nhìn ra vọng pháp : Cũng không có công năng giác chiếu. Vì vọng vốn không. Như mắt sáng thấy hoa đốm trong hư không,[3] không có công năng nhìn ngắm, cũng như kính soi sừng thọ.
Hỏi : Nếu như vậy vì sao trong phần ‘Nhân huân tập’ sau, lại hiện tất cả pháp thế gian?
Đáp : Đó là ứng với ‘Y tha tợ pháp’,[4] là chân tâm theo sự huân tập tạo ra, không có tự thể, chẳng khác chân như, nên văn của đoạn đó nói: “Vì tất cả pháp tức là tánh chân thật”. Còn đây là nói ở mặt ‘biến kế sở chấp thật pháp’ [5]nên không thể hiện.
Hỏi : Sở hiện tợ như pháp đó, há chẳng do chấp thật có mà ra sao?
Đáp : Tuy do chấp thật nhưng cái tợ đó hằng chẳng thật. Như hình là từ hình của vật thể, thường chẳng phải vật thể đó, trong kính hiện hình chẳng hiện vật thể. Chẳng hiện vật thể nên nói ‘không kính’. Hay hiện hình nên nói ‘nhân huân’.
Chánh văn :
Nhân huân tập kính, là như thật bất không.
Giải thích :
Trong phần giải thích này, có hai nghĩa ‘nhân’.
1. Nhân làm hiện pháp.
2. Nhân làm nội huân.
Cũng có thể hiểu nghĩa đầu là ‘nhân’, nghĩa sau là ‘huân tập’, nên nói ‘nhân huân tập’.
‘Như thật bất không’, là tổng nêu nhân huân pháp thể. Vì có tự thể và tánh công đức.
Sau là biệt giải thích hai nhân đó.
Chánh văn :
Tất cả cảnh giới thế gian đều hiện trong đó, chẳng ra, chẳng vào, chẳng mất, chẳng hoại, nhất tâm thường trụ, vì tất cả pháp tức là tánh chân thật.
Giải thích :
Tất cả cảnh giới thế gian đều hiện trong đó, là muốn nói tất cả pháp nếu lìa ngoài tâm này thì không có thể tánh, như kính hay hiện hình.
‘Chẳng ra’, là tâm cần phải huân mới biến hiện các pháp, không phải không huân mà tự hiện được.
‘Chẳng vào’, vì lìa tâm thì không có năng huân nên không từ ngoài vào.
‘Chẳng mất’, tuy chẳng từ trong ra và ngoài vào, nhưng pháp duyên khởi hiển hiện thì chẳng không, nên nói ‘chẳng mất’.
‘Chẳng hoại’, các pháp do duyên tụ hội thì hiện, không từ đâu đến, chẳng khác chân như, nên chẳng thể hoại. Như hình trong kính, dao chẳng thể chạm. Vì đồng với kính nên chẳng thể hoại.
‘Nhất tâm thường trụ’, là hội tướng đồng với thể.
‘Vì tất cả pháp…’ giải thích lý do đồng với kính. Vì hiển hiện trong tâm, không ra, không vào v.v… nên không có thể tánh. Không thể tánh nên xưa nay bình đẳng, chẳng khác chân như, nên nói ‘Nhất tâm thường trụ …’.
Chánh văn :
Lại, tất cả nhiễm pháp đều chẳng thể nhiễm, trí thể bất động, đầy đủ vô lậu huân chúng sinh.
Giải thích :
Đây là giải thích nghĩa ‘nhân’ thứ hai.
‘Nhiễm pháp đều chẳng thể nhiễm’, vì tánh thì tịnh nên tuy hiện nhiễm pháp mà không có nhiễm để bẩn, chẳng phải ngay khi hiện nhiễm thì không có nhiễm và sở nhiễm. Cũng do hiện nhiễm mà hiển trở lại bản tịnh. Như kính sạch trong có thể hiện các vật bẩn, khi vật bẩn hiện thì cũng hiển trở lại kính đó sạch trong, há vật bẩn này có thể làm bẩn kính? Nếu chẳng hiện nhiễm thì không lấy gì để hiển cái chẳng nhiễm.
‘Trí thể bất động’, vì vốn không nhiễm nên nay không có cái mới tịnh, cho nên trí bản giác chưa từng dời đổi. lại tuy hiện nhiễm pháp mà chẳng bị nhiễm, nên nói ‘bất động’. Như hình tượng ở trong kính, tùy vật thể mà chuyển biến, nhưng thể của kính chưa từng động.
‘Đầy đủ vô lậu …’, đây là tánh đức nhiều như cát sông hằng không chỗ thiếu trong bản giác, là cái nhân nội huân cho chúng sinh, khiến họ chán sinh tử mà thích cầu niết bàn. Kinh Thắng Man nói: “Do có Như Lai tạng nên hay chán sinh tử khổ mà thích cầu niết bàn”. Luận Phật Tánh nói: “Tự tánh thanh tịnh tâm gọi là đạo đế”. Cũng là 10 loại nghiệp tánh trong Phật tánh.
Chánh văn :
Pháp xuất ly kính, là pháp bất không thoát phiền não ngại và trí ngại, lìa tướng hòa hợp, thuần tịnh minh.
Giải thích :
Trước là nêu. Sau, giải thích.
‘Pháp xuấy ly’, là pháp chân như, xuất khỏi hai chướng và ly hòa hợp, nên nói ‘xuất ly’. Trước, nói tánh tịnh bất không Như Lai tạng tại triền. Nay, nói pháp thân ly cấu bất không xuất triền. Luận Bảo Tánh nói: “Có hai thứ tịnh. Một là tự tánh tịnh, vì đồng tướng. Hai là ly cấu tịnh, vì thắng tướng.
‘Pháp bất không’ là xuất pháp thể, là nhân huân nói trước. Nhiễm tâm thô tế gọi là ‘phiền não ngại’. Vô minh sở y,[6] gọi là ‘trí ngại’.
‘Lìa tướng hòa hợp …’ là tịnh tâm thoát khỏi sự chướng ngại do nghiệp thức v.v… hòa hợp. Lìa tạp tướng hòa hợp nên gọi là ‘thuần’. Không hoặc nhiễm nên gọi là ‘tịnh’. Ra khỏi vô minh nên gọi là ‘minh’. Là Đại trí tuệ quang minh nên nói là ‘thuần minh tịnh’.
Chánh văn :
Duyên huân tập kính, y nơi pháp xuất ly chiếu khắp tâm chúng sinh, khiến tu thiện căn, tùy niệm thị hiện.
Giải thích :
Khi bản giác xuất chướng thì tùy chiếu vật cơ, thị hiện vạn hóa, làm lực ngoại duyên huân tập cho chúng sinh nên nói ‘y nơi pháp xuất ly …’.
Hỏi : Trí tịnh tướng của phần tùy nhiễm trước so với pháp này có gì sai biệt? Nghiệp dụng nói trên so với duyên huân này có gì khác nhau?
Đáp : Trước, ứng vào tùy nhiễm nên khi hoàn tịnh thì nói là trí. Tức nói trí dụng là ngay nơi thủy giác mà nói. Còn đây là ứng vào tự tánh, lìa chướng hiển pháp thể. Tức nói pháp dụng, là ngay nơi pháp thể mà nói. Cho nên trước nói là ‘trí’ mà đây nói là ‘pháp’, trước nói là ‘nghiệp’ mà đây nói là ‘duyên’. Pháp trí tuy khác nhau nhưng thể thì không sai biệt. Vì thủy giác tức là bản giác. Chỉ vì nay ngay nơi nghĩa mà khai thị nên có cảnh trí không đồng.
Trong bất giác có ba. Trước, nói căn bản bất giác. Kế, nói về chi mạt bất giác. Sau, kết mạt qui về bản. Cũng có thể hiểu : Trước, là nói về thể của bất giác. Kế, nói về tướng bất giác. Sau, kết tướng đồng với thể.
Trong thể bất giác có hai : Trước, y giác thành mê. Sau, y mê mà hiển giác. Cũng là giải thích các nghi. Vì vọng y nơi chân mà khởi, không có thể riêng, nên lại hiển ngược lại chân, là công năng nội huân. Do nghĩa này nên trong kinh nói rằng : «Phàm ai có tâm đều có Phật tánh, vì các vọng niệm nhất định y nơi chân. Do lực của chân mà các vọng niệm này không gì không ngược dòng». Trong phần y giác thành mê có ba, là pháp và dụ hợp lại.
Chánh văn :
BẤT GIÁC là, chẳng như thật biết chân như pháp nhất, nên bất giác tâm khởi mà có niệm ấy, niệm không có tự tướng, chẳng lìa bản giác.
Giải thích :
Trong phần pháp, trước là chẳng biết nhất vị như lý, giải thích nghĩa căn bản bất giác, như mê chánh phương.
‘Bất giác niệm khởi’, là các tướng niệm như nghiệp v.v…, chỉ cho tà phương.
‘Niệm không có tự tướng …’ là nói tà phương không có thể riêng, chẳng lìa chánh phương. Tức nói bất giác chẳng lìa giác.
Chánh văn :
Giống như người mê, nương nơi phương hướng mà lầm, nếu lìa phương hướng thì không có lầm. Chúng sinh cũng vậy. Y nơi giác nên mê, nếu lìa giác tánh thì không có bất giác.
Giải thích :
Đây là pháp và dụ hợp nhau. Có thể tự hiểu.
Chánh văn :
Vì có tâm vọng tưởng bất giác nên hay biết danh nghĩa mà nói là chân giác. Nếu lìa tâm bất giác thì không có tự tướng chân giác có thể nói.
Giải thích :
Trước, là vọng có công khởi tịnh. Sau, chân tương đãi với vọng. Vì y nơi chân, nên vọng mới có thể hiển chân. Theo vọng nên chân đợi vọng mới hiển.[7]
Trong phần chi mạt vô minh, lược thành hai thứ giải thích. Một, là ứng vào dụ mà nói ý. Hai, ngay nơi thức mà giải thích văn.
Trong phần dụ, dụ bản giác chân như giống như tịnh nhãn. Khí nhiệt làm kéo màng mắt như căn bản vô minh. Màng mắt hợp với mắt làm động tịnh nhãn. Nghiệp thức cũng vậy.
Do tịnh nhãn động nên bệnh mắt xuất hiện. Năng kiến tướng cũng vậy.
Vì mắt có bệnh mới hướng ra ngoài mà thấy, liền có vọng cảnh giới hiện, là hoa đốm trên hư không. cảnh giới tướng cũng vậy.
Vì có cảnh giới hoa đốm mới khởi tâm phân biệt hoa đẹp hoa xấu.Trí tướng cũng vậy.
Do phân biệt này mà chấp cứng chẳng đổi. Tương tục tướng cũng vậy.
Do cái chấp kiên định nên đối với cảnh nghịch thuận, khởi tâm thủ xả lấy bỏ. Chấp thủ tướng cũng vậy.
Do thủ tướng nên trên đó lại lập danh tự. Nếu có tướng, khi đối diện chỉ nghe danh liền chấp. Kế danh tự tương cũng như vậy.
Đã kế danh thủ tướng thì phát động thân khẩu, phan duyên hoa đốm trong hư không, tạo ra ác và thiện nghiệp rồi thọ quả báo khổ lạc, trường mê trong sanh tử chẳng thể thoát. Đều do lực của căn bản vô minh.
Trong phần giải thích sau có hai : Trước, vô minh làm nhân sinh tam tế. Sau, cảnh giới làm duyên sinh lục thô. Trong phần vô minh sinh tam tế cũng có hai : Tổng nêu và biệt giải thích.
Chánh văn :
Lại nữa, y nơi bất giác sinh ba thứ tướng, cùng với bất giác kia tương ưng chẳng lìa. Thế nào là ba?
Giải thích :
‘Cùng với bất giác kia tương ưng chẳng lìa’, là tướng chẳng lìa thể. Chi mạt chẳng lìa căn bản. Vì nương nơi vô minh mà thành vọng tâm. Nương nơi vọng tâm mà khởi vô minh.
‘Thế nào là ba’, tam tế là ba. Mỗi phần đều có nêu bày và giải thích.
Chánh văn :
Một là vô minh nghiệp tướng. Vì y nơi bất giác nên tâm động mà gọi là nghiệp. Giác thì chẳng động. Động thì có khổ, vì quả chẳng lìa nhân.
Giải thích :
‘Vì y nơi bất giác’ là chỉ cho phần vô minh nói trên, chính là căn bản vô minh.
‘Tâm động mà gọi là nghiệp’, là phần nghiệp nói trên. Nghiệp có hai nghĩa :
1. Nghiệp là động tác : Nên nói ‘nương nơi bất giác mà tâm động…’. ‘Giác thì chẳng động’ là nêu ngược lại để giải thích được thành tựu. Khi được thủy giác thấy không có động niệm, thì biết nay động chỉ là do bất giác.
2. Nghiệp là nhân : Nên nói ‘động thì có khổ’. Vì khi được vô niệm tịch tĩnh rồi liền được cái diệu lạc của niết bàn, nên biết nay động thì có khổ hoạn của sanh tử.
‘Quả chẳng lìa nhân’ là, bất động có lạc thì biết động nhất định có khổ. Nhân động quả khổ không khi nào đi riêng, nên nói ‘chẳng lìa nhau’.
Đây tuy động, mà động niệm này cực vi tế, duyên khởi mà thành nhất tướng, năng sở chưa phân, là phần tự thể của thức A lê da. Luận Vô Minh nói: “Hỏi: Thức này là tướng hay là cảnh giới? Đáp : Tướng và cảnh giới chẳng thể phân biệt. Một thể không khác. Phải biết đây là ứng vào nghĩa nghiệp tướng của A lại da mà nói. Sau là ứng vào hai phần bản thức kiến và thức thành hai.
Chánh văn :
Hai là Năng kiến tướng, vì y nơi động nên hay thấy. Bất động thì không thấy.
Giải thích :
Năng kiến tướng, là chuyển tướng. Y nơi nghiệp tướng trước, chuyển thành năng kiến, nên nói ‘Vì y nơi động nên hay thấy’. Nếu y nơi tánh tịnh môn thì không có năng kiến nên nói ‘Bất động thì không thấy’, hiển ngược lại nghĩa ‘năng kiến nhất định y nơi động’ mà có.
Như vậy, chuyển tướng tuy có năng duyên nhưng vì cảnh giới vi tế nên còn chưa nói về nó. Nhiếp Luận nói: “Ý thức duyên cảnh tam thế mà chẳng phải là cảnh tam thế”, thì biết cảnh sở duyên của thức này chẳng thể biết, nên nói “sở duyên chẳng thể biết”. Nói ‘cảnh sở duyên chẳng thể biết’ là ứng vào năng duyên để rõ nghĩa chuyển tướng của bản thức.
Chánh văn :
Ba là cảnh giới tướng, vì y nơi năng kiến nên cảnh giới vọng hiện. Lìa kiến thì không có cảnh giới.
Giải thích :
Cảnh giới tướng này là hiện tướng. Y nơi chuyển tướng trước hay hiện cảnh giới, nên nói ‘Y nơi năng kiến…’. ‘Lìa kiến …’, là nêu ngược lại để giải thích. Kinh Lăng Già nói: “Giống như gương sáng gìn giữ các sắc tượng, chỗ hiện tướng hiện cũng như thế”. Phần sau của luận này, chỗ nói về hiện thức cũng nói: “Hay hiện tất cả cảnh giới, giống như gương sáng hiện các sắc tượng. Hiện thức cũng như vậy” cho đến “Vì tất cả thời nhậm vận mà khởi, thường hiện tiền”. Các thứ đó đều ứng với nghĩa hiện thức của bản thức mà nói. Hiện tướng này thường tại bản thức, hà huống chuyển thức nghiệp thức mà ở lại lục thức sao?
Ba thứ này đều do căn bản vô minh làm động bản tịnh tâm mà thành, là tâm bất tương ưng, nhiếp thuộc thức A lại da.
Sau là cảnh giới làm duyên sinh lục thô, chính là phân biệt sự thức. Kinh Lăng Già nói: “Gió cảnh giới làm động các sóng thức …” là đây.
Hỏi : Tam tế thuộc A lại da, sáu thô thuộc ý thức, vì sao chẳng nói thức Mạt na?
Đáp : Ý có hai nghĩa :
1. Vì Mạt na là chấp tương ưng, nên chẳng nói riêng. Du Già nói: “Thức A lại da khởi thì hai thức tương ưng”. Lại, do khi ý thức duyên ngoại cảnh, thì trong phải y nơi Mạt na làm căn nhiễm ô, mới được sinh khởi, cho nên thứ lớp nói lục thô. Vì bên trong y nơi Mạt na nên cũng chẳng nói riêng.
2. Vì bất tiện, nên lược qua chẳng nói. Tướng bất tiện là vầy : Vì vô minh trụ địa làm động bản tịnh tâm, khiến khởi hòa hợp thành A lại da. Mạt na thì không có nghĩa này. Nên trong tam tế, lược qua không nói.
Lại, sự thức là do ngoại cảnh dẫn khởi, Mạt na lại không có nghĩa duyên ngoại cảnh, nên trong lục thô cũng lược qua chẳng nói. Cũng có thể do kế nội thì làm ngã thuộc tam tế, kế ngoại thì làm ngã thuộc lục thô, nên lược chẳng nói. Kinh Lăng Già cũng đồng với thuyết này nên kinh đó nói: “Đại Huệ! Nói lược thì có ba thứ thức. Nói rộng thì có tám tướng. Thế nào là ba? Là chân thức, hiện thức và phân biệt sự thức …”. Hiện thức nói trong kinh chính là hiện tướng của tam tế. Phân biệt sự thức chính là lục thô sau. Vì sao thế? Vì phần sau kinh Lăng Già giải thích trong phần phân biệt sự thức rằng: “Phan duyên ngoại cảnh giới khởi lên sự thức …”, nên biết sự thức không phải là Mạt na. Phần sau của luận này cũng nói đồng với đó.
Trong phần giải thích sau có hai : Tổng nêu và biệt giải thích.
Chánh văn :
Vì có cảnh giới làm duyên nên lại sinh sáu tướng. Thế nào là sáu?
Giải thích :
Trong phần biệt giải thích, lục tướng phân làm sáu đoạn. Mỗi đoạn đều có trước nêu tên, sau giải thích. Trong sáu đoạn đó, tổng làm ba đối.
Hai tướng đầu là một đối, là ‘tế hoặc’ trong sự thức, chấp cảnh và pháp là thật. Trong sáu nhiễm thì đồng với pháp chấp, là chỗ đoạn của Bồ tát đăng địa, cũng nhiếp thuộc ngũ ý nói sau, vì có nghĩa y và chánh.
Hai tướng kế là một đối, là ‘thô hoặc’ trong sự thức. Đối với thật cảnh nói trên lại khởi các hoặc tham, sân v.v…, là phần “Do phàm phu dính mắc xoay vần sâu trong ngã …” khi nói về ý thức, thuộc ngũ ý. Nó là chỗ Nhị thừa phải đoạn trong lục nhiễm.
Hai tướng cuối là một đối, y nơi hoặc mà tạo nghiệp, khổ báo vương mãi.
Chánh văn :
Một là TRÍ TƯỚNG, y nơi cảnh giới, tâm khởi phân biệt, ái cùng chẳng ái.
Giải thích :
Trí tướng là, đối với tướng sở hiện là hiện thức nói trên, chẳng biết đó là do tự tâm hiện, mới khởi tuệ số phân biệt nhiễm tịnh, chấp có định tánh, nên nói ‘Y nơi cảnh giới …’
Chánh văn :
Hai là TƯƠNG TỤC TƯỚNG, y nơi trí mà sinh khổ vui, giác tâm khởi niệm, tương ưng chẳng dứt.
Giải thích :
“Y nơi trí’, là để rõ sở y khởi. Tức y nơi phân biệt trước, đối với cảnh ưa thích thì khởi lạc giác thọ, với cảnh không ưa thích thì khởi khổ thọ. Thường thường khởi niệm tương tục hiện tiền. Đây là nói về tự tương tục. Lại, hay khởi hoặc nhuận thấm thêm nghiệp, dẫn trì sinh tử là lệnh tha tương tục, nên văn sau nói : «Nắm giữ khổ, lạc v.v…».
Chánh văn :
Ba là CHẤP THỦ TƯỚNG, y nơi tương tục, duyên niệm cảnh giới, duy trì sự khổ vui, tâm khởi dính mắc.
Giải thích :
‘Chấp thủ tướng’, đối với cảnh khổ lạc v.v…chẳng biết là hư vô, khởi sâu thủ trước, nên văn sau nói: «Tức là tương tục thức. Do phàm phu dính mắc sâu v.v…».
‘Y nơi tương tục …khổ lạc’, là tương tục tướng nói trên. ‘Tâm khởi dính mắc’, là chấp thủ tướng nói đây.
Chánh văn :
Bốn là KẾ DANH TỰ TƯỚNG, y nơi vọng chấp, phân biệt tướng danh ngôn hư dối.
Giải thích :
‘Kế danh tự tướng’, y nơi chỗ chấp tướng điên đảo trên, lại lập danh ngôn, đó là phân biệt. Kinh Lăng Già nói: «Tướng danh thường theo nhau mà sinh các vọng tưởng». Nên nói ‘Y nơi vọng chấp …’
Từ đây trở lên là khởi hoặc. Từ đây trở xuống là tạo nghiệp cảm báo.
Chánh văn :
Năm là KHỞI NGHIỆP TƯỚNG, y nơi danh tự, tìm danh thủ trước, tạo mọi thứ nghiệp.
Giải thích :
‘Khởi nghiệp’ là, trước tướng kế danh, y nơi thô hoặc này phát động thân khẩu, tạo mọi thứ nghiệp, là nhân của khổ.
Chánh văn :
Sáu là NGHIỆP HỆ KHỔ TƯỚNG, vì y nơi nghiệp thọ báo mà chẳng tự tại.
Giải thích :
‘Nghiệp hệ khổ’ là, nghiệp dụng đã thành, tất nhiên chiêu quả. Tới lui trong các đường, sinh tử ràng buộc triền miên nên nói ‘Y nghiệp thọ báo chẳng tự tại’.
Đến đây là xong các tướng chi mạt.
Sau là kết chi mạt qui về căn bản.
Chánh văn :
Phải biết vô minh hay sinh tất cả nhiễm pháp.
Giải thích :
Tổng nhiếp tất cả nhiễm pháp, là tam tế và lục thô trên, đều nhân nơi căn bản vô minh chẳng liễu chân như mà khởi, nên nói ‘Phải biết…’.
Sau là giải thích lý do.
Chánh văn :
Vì tất cả nhiễm pháp đều là tướng bất giác.
Giải thích :
Nghi rằng : Nhiễm pháp nhiều loại sai biệt chẳng đồng, vì sao căn bản chỉ là một vô minh ?
Giải thích : Nhiễm pháp tuy nhiều, nhưng đều là khí vô minh, đều là tướng sai biệt của bất giác, nên chẳng khác bất giác. Vì thế, nói ‘tất cả nhiễm pháp đều là tướng bất giác’.
Từ trên đến đây là tổng giải thích nghĩa bất giác, là ứng với nhiễm pháp nói về tâm sinh diệt xong. Sau, là nói về tướng đồng và khác của nhiễm và tịnh. Có ba : tổng nêu, liệt kê tên và giải thích rộng.
Chánh văn :
Lại nữa, giác cùng với bất giác có hai thứ tướng. Thế nào là hai ? Một là đồng tướng. Hai là dị tướng.
Giải thích :
Trước là nói đồng. Sau nói dị. Trong đồng có ba : Trước là dụ, kế là hợp, sau là dẫn chứng.
Chánh văn :
Đồng tướng là, như các thứ đồ gốm đều đồng tánh tướng vi trần.
Giải thích :
Đây là nói về đồng tướng. Hai pháp nhiễm và tịnh đồng lấy chân như làm thể. Chân như lấy hai pháp này làm tướng. Nên nói đồng tánh tướng. Các thừ đồ gốm dụ cho pháp nhiễm tịnh. Đều đồng tánh vi trần là, các thứ đồ gốm lấy vi trần làm tánh, vi trần lấy đồ gốm làm tướng, nên nói ‘tánh tướng vi trần’.
Chánh văn :
Như vậy, vô lậu vô minh các thứ huyễn nghiệp, đều đồng tánh tướng chân như.
Giải thích :
Trong phần hợp này, nói ‘vô lậu vô minh’ là, hai giác thủy và bản. ‘Vô minh’ là, căn bản bất giác. Hai thứ này đều có nghiệp dụng hiển hiện mà chẳng thật có, nên nói ‘huyễn nghiệp’. Các thứ này hợp với các thứ đồ gốm.
‘Đều đồng tánh tướng chân như’ là, vì làm động môn chân như mà làm thành hai pháp nhiễm tịnh trong môn sinh diệt, hoàn tòan không có thể riêng nên nói ‘tánh’. Chân như cũng lấy hai pháp này làm tướng. Tướng tịnh thì có thể tự biết. Còn tướng nhiễm là, văn sau nói : «Chỉ vì vô minh mà huân tập nên liền có tướng nhiễm».
Chánh văn :
Cho nên trong Khế kinh, y nơi các nghĩa này mà nói «Tất cả chúng sinh xưa nay thường trụ nhập niết bàn. Pháp bồ đề, chẳng phải là tướng có thể tu, chẳng phải là tướng có thể tạo, rốt ráo không đắc.
Giải thích :
Trong phần dẫn chứng ‘Y nơi các nghĩa này … nhập niết bàn’ là y nơi môn đồng tướng. Như chi mạt bất giác xưa nay là chân như, nên nói ‘tánh tất cả chúng sinh tự niết bàn, chẳng đợi phải diệt độ’. Kinh Niết Bàn nói : «Tất cả chúng sinh chính là tướng niết bàn, không phải diệt nữa».
‘Pháp bồ đề …’ là, y nơi môn đồng tướng, như thủy giác và bản giác nói trên chính là chân như, nên tướng bồ đề chẳng thể tu chứng.
Trước, ứng vào bất giác là như, nên chúng sinh xưa nay nhập niết bàn. Nay, ứng vào giác cũng là như, nên bồ đề của chư Phật không phải mới được.
‘Chẳng phải là tướng có thể tu’[8] là, niết bàn về trước chẳng phải là liễu nhân nhờ tu mà hiển.
‘Chẳng phải là tướng có thể tạo’ là, bồ đề về trước không phải là sanh nhân tạo tác.
‘Rốt ráo không đắc’ là, hai quả này là tánh tịnh vốn có nên không đắc.
Sau là giải thích để dẹp các nghi. Nghi rằng : Nếu chúng sinh xưa nay đã nhập niết bàn, không phải mới diệt, tức đã đồng với chư Phật, vì sao chẳng hiện các thứ sắc thân hóa, báo v.v… ?
Chánh văn :
Cũng không có sắc tướng có thể thấy, mà có thấy sắc tướng là do huyễn nghiệp tùy nhiễm tạo ra, chẳng phải là tánh trí sắc bất không, vì trí tướng không thể thấy.
Giải thích :
Giải thích cái nghi ‘Tự thể pháp tánh vốn không có sắc tướng có thể thấy sao lại hiện sắc tướng’ nên nói ‘Cũng không có sắc tướng có thể thấy’.
Lại nghi ‘Nếu pháp tánh chẳng phải là pháp sắc tướng có thể thấy nên chẳng hiện hai sắc, thì sao chư Phật lại hiện các loại sắc như báo, hóa v.v…’. Giải thích : Thấy các loại sắc của chư Phật đều là tùy tâm nhiễm huyễn của chúng sinh mà hiển hiện thay đổi, thuộc về môn dị tướng nói sau, không phải trong trí bản giác thuộc môn đồng tướng này có tánh sắc ngại bất không. Cũng có thể hiểu là, trong bản giác bất không hằng sa công đức cũng không có sắc tướng này, nên nói ‘mà có thấy sắc tướng … bất không’.
Vì sao biết trong pháp thể không có sắc tướng ?
Giải thích : Vì trí tướng bản giác không phải là pháp có thể thấy.
Sau là môn dị tướng, trước là dụ, sau hợp.
Chánh văn :
Dị tướng là, như các thứ đồ gốm, các thứ không giống nhau. Cũng vậy, vô lậu vô minh tùy nhiễm huyễn sai biệt tánh nhiễm huyễn sai biệt.
Giải thích :
‘Tùy nhiễm huyễn sai biệt’, là pháp vô lậu. ‘tánh nhiễm huyễn sai biệt’, là pháp vô minh. Vì kia vô minh, mê lý bình đẳng nên tánh ấy tự thị sai biệt. Văn sau nói : «Vô minh tự tánh sai biệt cũng như thế». Các pháp vô lậu thuận tánh bình đẳng, luận thẳng về tánh ấy thì không có sai biệt, chỉ là theo tướng sai biệt của nhiễm pháp, nên nói pháp vô lậu có sai biệt. Như đối với các nhiễm pháp sai biệt là nghiệp thức v.v… nói sau mà nói tánh đức của bản giác nhiều như cát sông Hằng. Cũng do đối trị với nhiễm pháp sai biệt mà thành vạn đức sai biệt của thủy giác. Như vậy, nhiễm tịnh đều là chân như tùy duyên hiển hiện, vì có mà không tự thể, nên gọi chung là huyễn.
Từ trên đến đây, nhiễm tịnh không đồng, giải thích tâm sinh diệt xong. Sau, giải thích nhân duyên trong phần Lập Nghĩa. Có hai : Trước, nói về nghĩa nhân duyên sinh diệt. Sau, hiển bày tự thể mà nhân duyên y cứ. Trong phần trước cũng có hai : Trước là tổng nêu. Sau, biệt giải thích.
Chánh văn :
Lại nữa, NHÂN DUYÊN SINH DIỆT là, chúng sinh y nơi tâm, ý, ý thức mà chuyển.
Giải thích :
Nói ‘nhân duyên’ là, tâm thể A lê da không giữ tự tánh, là ‘nhân’ của sinh diệt. Căn bản vô minh huân động tâm thể là ‘duyên’ của sinh diệt. Lại, vô minh trụ địa, căn bản của các nhiễm, là ‘nhân’ của sinh diệt. Vọng cảnh giới bên ngoài làm động khởi sóng thức, là ‘duyên’ của sinh diệt. Y nơi hai nghĩa này mà hiển ‘nhân duyên’.
Các thức sinh diệt hợp với nhau mà sinh, nên gọi là chúng sinh, nhưng không có thể riêng. Chỉ y nơi tâm thể nên nói ‘Y nơi tâm’. Chính là tự tướng của tâm A lê da. Năng y là chúng sinh, là ý và ý thức. Y nơi tâm thể mà khởi nên nói ‘chuyển’. ‘Chuyển’ là khởi.
Sau là biệt giải thích.
Chánh văn :
Nghĩa ấy thế nào ?
Giải thích :
Tâm này tạo chúng sinh, nghĩa ấy thế nào ?
Sau sẽ giải thích. Có ba : Trước, giải thích sở y. Kế, giải thích ý chuyển. Sau, giải thích ý thức chuyển.
Chánh văn :
Vì y nơi thức A lê da mà nói có vô minh.
Giải thích :
‘Thức A lê da’ là cái tâm vừa nói trên, là nhân của sinh diệt. ‘Có vô minh’, là nghĩa bất giác trong hai nghĩa của thức A lê da, là duyên của sinh diệt. Đây muốn nói : Y nơi nhân duyên này mà ý và ý thức chuyển, nên nói ‘Vì y nơi …’.
Trong phần tổng nêu trên, chỉ lược nói về nhân của nó, nên chỉ nói ‘y tâm’. Nay trong phần biệt giải thích, vì hiển đầy đủ nhân duyên nên nói ‘Y … mà có vô minh’.
Hỏi : Trên nói ‘y giác có bất giác’, do lực bất giác đó làm động tâm thể khiến khởi diệt hòa hợp mới có thức A lê da, sao đây lại nói y A lê da có vô minh?
Đáp : Có ba cách giải thích.
1. Do A lê da có hai nghĩa : Do vô minh làm động mà thành A lê da. Cũng chính A lê da này lại cùng với vô minh làm y tựa. Vì không lìa nhau. Vì sao? Vì y mê mà khởi tương tợ, tức động chân tâm mà khởi nghiệp thức, mê cái tương tợ này làm thật, là y nơi A lê da mà có vô minh.
2. Do A lê da có hai nghĩa là giác và bất giác. Trước là riêng nơi gốc mà nói nên nói y giác có bất giác. Nay ngay nơi ngọn mà luận nên nói y nơi A lê da mà có vô minh. Đây là nghĩa bất giác trong hai nghĩa, nên ở trong A lê da mà nói là ‘y’.
3. Ý chính trong đây chỉ là giữ cái nghĩa tùy duyên của chân tâm. Nghĩa tùy duyên này nan danh mục,[9] nên nếu ngay ngọn mà khởi thì nói y chân như có vô minh, nếu là đã khởi rồi thì nói y A lê da có vô minh. Song hai danh này mới nói hết được nghĩa của nó, nên trước sau cứ y nhau mà nói vậy.
Sau là tứ tự giải thích ý chuyển. Có ba : Trước, nói lược. Kế, nói rộng, Sau, kết qui về tâm. Phần trước nói về năm loại tướng thức.
Chánh văn :
Bất giác mà khởi năng kiến, năng hiện, hay thủ cảnh giới, khởi niệm tương tục nên nói là ý.
Giải thích :
‘Bất giác mà khởi’, là tâm thể (sở y) do vô minh huân mà động, chính là nghiệp thức. Trước y nơi A lê da có vô minh, là y nơi cái tương tợ mà khởi mê. Nay huân tịnh tâm thành A lê da, tức y nơi mê mà khởi cái tương tợ. Hai nghĩa này đồng thời mà nói có trước sau.
‘Năng kiến’, là tâm thể đó chuyển thành năng kiến, là chuyển thức. ‘Năng hiện’, là tâm thể đó lại thành năng hiện, chính là hiện thức. ‘Hay thủ cảnh giới’, là hay thủ hiện thức (tức cảnh giới sở hiện), đó là trí thức. ‘Khởi niệm tương tục’, là đối với cảnh giới đã thủ khởi các thô niệm, là thức tương tục. Y nơi 5 nghĩa này, thứ lớp chuyển thành y chỉ. Y chỉ 5 nghĩa này mà sinh ý thức v.v... nên nói là ‘ý. Nhiếp luận nói: “Ý lấy y chỉ của năng sinh làm nghĩa”.
Sau là giải thích rộng. Trong đó có hai : Trước là nêu, kế là giải thích. Trong phần giải thích 5 ý phân làm 5 đoạn. Đều có nêu và giải thích.
Chánh văn :
Ý này lại có năm loại. Thế nào là năm? Một, gọi là NGHIỆP THỨC, là do lực vô minh bất giác tâm động.
Giải thích :
‘Lực vô minh’, là căn bản vô minh, là duyên sở y. Muốn nói tâm chẳng tự khởi, khởi là do duyên.
‘Bất giác tâm động’, là nói về tướng khởi, giải thích thành nghiệp thức. Nghĩa ‘khởi động’ là nghiệp thức.
Chánh văn :
Hai, gọi là CHUYỂN THỨC, là y nơi tâm động mà hay thấy tướng.
Giải thích :
Đây là chuyển thức. ‘Y tâm động mà hay thấy tướng’ là y nơi cái động của nghiệp thức trước chuyển thành tướng năng kiến. Chuyển thức có hai : Nếu ngay nơi vô minh, động mà chuyển thành năng kiến, thì ở tại bản thức. Nếu tại cảnh giới, động mà thành năng kiến, thì tại nơi sự thức. Trong đây, chuyển tướng ứng vào nghĩa đầu.
Chánh văn :
Ba, gọi là HIỆN THỨC. Đó là hay hiện tất cả cảnh giới giống như gương sáng hiện các sắc tượng. Hiện thức cũng như vậy. Tùy ngũ trần nào đối đến, liền hiện không có trước sau, vì tất cả thời nhậm vận mà khởi, thường tại tiền.
Giải thích :
‘Hay hiện tất cả cảnh giới’ là pháp. ‘Giống như …’ là dụ. ‘Hiện thức cũng như vậy …’ là hợp.
‘Hay hiện tất cả cảnh giới’, là y nơi cái thấy của chuyển thức trước, khởi cái công hay hiện này, nên hiện cảnh giới hư vọng. Vì lực huân tập của tâm thể cùng với vô minh hợp nên hiện các loại cảnh giới vô biên.
Trong phần hợp, nói ‘ngũ trần’ là nêu cái hiển thô để bao hàm cả sắc tượng mà thật là hiện chung tất cả cảnh giới, nên trong phần pháp nói là ‘tất cả’. Theo luận Du Già thì hiện chủng tử của năm căn cùng với khí thế gian v.v… Nay trong luận này, chỉ nói về ngũ trần, vì ứng vào nghĩa dẫn khởi phân biệt sự thức mà nói như thế.
‘Nhậm vận mà khởi’ là, chẳng như thức thứ sáu và thứ bảy có lúc đoạn diệt, nên giản trạch khác với đó. ‘Thường tại tiền’, là vì gốc của các pháp. Nói thức này tại trước các pháp, vì là sở y của các pháp. Đây là để phân biệt khác với thức Mat na.
Chánh văn :
Bốn, gọi là TRÍ THỨC, là phân biệt pháp nhiễm tịnh.
Giải thích :
‘Trí thức’, là phần phân biệt tế trong sự thức. Vì không biết cảnh giới là sở hiện của tự tâm nên khởi nhiễm tịnh là phân biệt vi tế, nên nói là ‘trí’.
Chánh văn :
Năm, gọi là TƯƠNG TỤC THỨC, vì niệm tương ưng chẳng dứt, nên giữ gìn nghiệp thiện ác trong vô lượng đời quá khứ khiến chẳng mất, lại hay thành thục quả báo khổ vui trong hiện tại và vị lai không hề sai chạy, hay khiến hiện tại bỗng dưng nhớ lại những việc đã qua, bất giác lo nghĩ vọng tưởng những việc chưa đến.
Giải thích :
‘Tương tục thức’, cũng là phần tế trong sự thức, là tương tục tướng trong lục thô.
‘Vì niệm tương ưng chẳng dứt’, là pháp chấp tương ưng, được trường tương tục. Đây là ứng vào cái thể chẳng dứt mà giải thích nghĩa tương tục.
‘Giữ gìn nghiệp …’ thì có người giải thích :
1/ Chỉ thuộc về thức tương tục : Vì ứng vào công năng giải thích nghĩa tương tục. Vì thức này hay khởi phiền não làm nhuận thấm thêm nghiệp, hay dẫn trì nghiệp chủng vô minh thời quá khứ làm phát ra các hạnh thiện ác,[10] khiến thành các cõi chịu các thành quả. Nếu không có hoặc làm nhuận thấm thì nghiệp chủng tiêu vong, nên nói ‘Giữ gìn nghiệp … chẳng mất’. Đây là dẫn sinh khiến thành thục. Cũng hay khởi phiền não nhuận sanh, hay khiến nghiệp đã thành thục cảm cái báo tương ưng, nên nói ‘Thành thục quả báo khổ vui không hề sai chạy’. Như thế, nhân quả ba đời lưu chuyển liên trì[11] chẳng dứt, công là do ý thức. Do nghĩa này nên gọi là tương tục thức.
‘Hay khiến hiện …việc chưa đến’, là hiển cái dụng của thức này, tức tướng phân biệt thô, chẳng đồng với cái phân biệt vi tế của trí thức.
2/ Tổng nói công năng của 5 ý trước : Đầu tiên, giữ gìn nghiệp quả chẳng mất là công năng của tam tế, thuộc A lê da. Sau, hay nhớ những việc đã qua v.v… là công năng của hai ý sau, thuộc phần vi tế của sự thức.
Phần sau là kết qui về tâm. Có hai : Trước, chỉ kết thuộc tâm. Sau, do giải thích nghi mà nói rộng. Trong phần kết thuộc tâm cũng có hai : Thuận là kết luận về tam giới. Nghịch, là kết luận về lục trần.
Chánh văn :
Cho nên, tam giới hư ngụy chỉ do tâm tạo, lìa tâm thì không có cảnh giới sáu trần.
Giải thích :
‘Cho nên’, là nhất tâm theo vô minh động mà thành 5 loại thức nên nói tam giới chỉ tâm chuyển. Tâm này tùy sự huân mà hiện tương tợ, nên nói ‘hư’. Ẩn thể hư mà trá hiện thật trạng, nên nói ‘ngụy’. Hình trạng hư ngụy, tùy có mọi thứ nhưng tận cùng nhân duyên chỉ do tâm tạo. Kinh Thập Địa cùng nói đồng với đây. Lìa hiện thức này thì không có trần cảnh. Nghiệm lại sáu trần chỉ là nhất tâm, nên nói ‘Lìa tâm thì không có sáu trần’.
Trong phần giải thích nghi có ba :Trước là hỏi. Kế là đáp. Sau là kết.
Chánh văn :
Nghĩa ấy thế nào ?
Giải thích :
Ý hỏi : Trần cảnh hiện có vì sao nói chỉ là tâm?
Chánh văn :
Vì tất cả pháp đều từ tâm khởi vọng niệm mà sinh. Tất cả phân biệt tức là phân biệt tự tâm. Tâm chẳng thấy tâm, không tướng có thể được.
Giải thích :
Đáp : Vì tất cả pháp đều từ tâm này tùy theo sự huân tập mà khởi, hoàn toàn không có thể khác, nên nói ‘chỉ là tâm’.
Giải thích : Do vọng niệm huân mà sinh các pháp, nên nói ‘Vọng niệm mà sinh’.
Cũng nghi : Pháp đã chỉ là tâm, ta sao chẳng thấy mà cái ta thấy chỉ là khác tâm?
Nói ‘khác tâm’, vì ông vọng niệm phân biệt tạo ra, nên nói ‘vọng niệm sinh’.
‘Tức phân biệt tự tâm’ là, cảnh đã chỉ là hiện thức, không có thật pháp bên ngoài, cho nên phân biệt chỉ là phân biệt tự tâm. Tức hiển nghĩa duy thức không trần.
‘Tâm chẳng thấy tâm’là, trần đã không tướng, thức chẳng tự duyên, cho nên không có trần thì thức chẳng sinh. Nhiếp Luận nói : «Không có diệu pháp thủ diệu pháp». Năng sở đều tịch, nên nói ‘không tướng có thể được’. Trung Biên Luận có kệ : «Do y nơi duy thức. Nghĩa ‘cảnh không thể’ thành. Do vì trần không có. Nên bản thức chẳng sinh» . ‘Phân biệt tự tâm’ nói đây là y nơi duy thức mà lìa trần, đồng với nửa bài kệ trên của Trung Biên Luận. ‘Tâm chẳng thấy tâm’, thì y nơi không trần mà lìa thức, đồng với nửa bài kệ sau của Trung Biên Luận. Các thứ này là ứng vào hành mà nói, nên lìa tánh y tha. Luận Du Già nói : «Hỏi : Các hành giả tu quán khi thấy Biến kế sở chấp không tướng, nên nói nhập vào các tánh nào? Đáp : Nhập vào Viên thành thật tánh. Hỏi : Khi nhập vào Viên thành thật tánh, nên nói lìa các tánh nào? Đáp : Lìa y tha khởi tánh». Do đó phải biết, duy thức quán thành thì không có thức. Lăng Già cũng nói : «Tâm lượng của vô tâm, ta nói là tâm lượng» là chỗ này. Nếu theo luận này, thì vô minh làm động chân như thành duyên khởi sinh diệt. Gió vô minh diệt, sóng thức liền dừng, chỉ là chân như bình đẳng bình đẳng.
Trong phần kết có bốn : Trước là kết tướng thuộc tâm. Kế là nêu dụ để nói. Kế nữa là hàng phục các nghi của ngoại đạo. Sau là nghiệm lại duy tâm, hiển cảnh thành vọng.
Chánh văn :
Phải biết tất cả cảnh giới thế gian đều y nơi vọng tâm vô minh của chúng sinh mà được tồn tại.
Giải thích :
‘Vô minh’, là căn bản vô minh. ‘Vọng tâm’, là nghiệp thức v.v… Vì tất cả các cảnh ở thế gian đều y đó mà thành, chính là hiện thức v.v…, và nếu vô minh chưa hết thì các thức này nắm giữ cảnh giới chẳng ngừng, nên nói ‘tồn tại’.
Chánh văn :
Cho nên, tất cả pháp như bóng trong gương, không có cái thể để nắm bắt, duy tâm hư vọng, vì tâm sinh thì tất cả pháp sinh, tâm diệt thì tất cả pháp diệt.
Giải thích :
‘Không có cái thể có thể nắm bắt’ là muốn nói cảnh giới này lìa ngoài tâm thì không có cái thể để nắm bắt. Cũng là tâm này, nên cũng ‘không có cái thể’. Như ngoài gương không có hình ảnh, nhưng trong gương thì lại không có tự thể.
Nghi : Đã không có tự thể, vì sao dường như hiển hiện?
Đáp : Đây đều là hư vọng hiển hiện trên chân tâm, chỗ nào có cái thể để nắm bắt.
Trong phần nghiệm ngược lại, nghi : Vì sao biết là hiển hiện trên tâm?
Giải thích : ‘Vì tâm sinh thì tất cả pháp sinh, tâm diệt thì tất cả pháp diệt’ nên biết. Trong đó, do lực vô minh bất giác tâm động cho đến khi hiện tất cả cảnh giới, là nói ‘Tâm sinh thì tất cả pháp sinh’. Đây là tâm tùy sự huân tập mà động, nên nói ‘sinh’.
Nếu vô minh diệt, cảnh giới diệt theo, các thức phân biệt đều diệt không còn, là nói ‘Tâm diệt thì tất cả pháp diệt’. Đây là nguồn tâm hoàn tịnh, nên nói ‘diệt’. Tâm đã theo bất giác vọng hiện các cảnh giới thì nghiệm ra các cảnh chỉ là tâm, không có tự thể.
Hỏi : Trên nói sinh diệt kết lỗi thuộc vô minh, đây nói nhân duyên, vì sao kết thuộc tâm?
Đáp : Vì vô minh làm động tâm tĩnh ấy, khiến nó sinh diệt, nên cái sinh diệt đó, công là ở vô minh. Nay nói đạo lý nhân duyên hòa hợp này là để hiển cái nghĩa không tánh của các pháp, không nói ở nghĩa ảnh tượng. Cái hòa hợp đó kết thuộc tâm.
Trong phần giải thích ý thức, thì trước nêu, sau giải thích. Trong phần giải thích có năm :1/Ứng vào người nói cái thô. 2/Hiển cái thể của hoặc. 3/Chấp sở y duyên. 4/Chế lập danh. 5/Sở y thức khởi.
Chánh văn :
Lại nữa, ý thức tức là tương tục thức, y nơi các phàm phu thủ trước chuyển sâu trong ngã và ngã sở, mỗi mỗi vọng chấp, theo sự phan duyên, phân biệt sáu trần, gọi là ý thức, cũng gọi là phân ly thức, cũng gọi là phân biệt sự thức. Thức này y nơi nghĩa phiền não kiến và ái mà tăng trưởng.
Giải thích :
‘Ý thức tức là tương tục thức’, là nói thức sinh khởi này, thô và tế tuy khác, nhưng đồng là một thức, hoàn toàn không có thể riêng, là chỉ cho thức thứ năm trước. Chỉ là y nơi phần tế là phân biệt pháp chấp, tương ưng với nghĩa môn y chỉ, mà nói là ý.[12]Ứng với cái hay khởi thô hoặc là kiến và ái, tương ưng với khởi môn đã nói, mà nói là ý thức. Vì là thức của ý, nên gọi là ý thức.
‘Y nơi các phàm phu’, là giản trạch chẳng phải ý thức của thánh nhân. Vì trí thức và tương tục thức là chỗ khởi chung cho cả Nhị thừa và Bồ tát địa tiền v.v… Nay ứng vào phàm phu mà hiển cái thô của nó.
‘Thủ trước chuyển sâu’, vì không đối trị nên đuổi theo chấp trước vọng cảnh mà chuyển hiện cái cực thô, nên nói ‘sâu’.
Trong phần thể của hoặc, không phải chỉ ngoài tâm chấp cảnh là thô mà còn đối với thân cho là ngã, đối với trần cho là sở, có khi chấp là ấm, có khi chấp lìa ấm v.v…‘Mỗi mỗi vọng chấp’ là hiển tướng chấp ngã.
Lấy duyên làm sở y,[13] vì chỉ vin vào việc của đảo cảnh, chẳng rõ chánh lý, nên nói ‘Theo sự phan duyên…’
‘Gọi là ý thức’, là luận ngay nghĩa một ý thức, nên không hiển riêng ngũ thức, chỉ nói ý thức phân biệt sáu trần. ‘Cũng gọi là phân ly thức’, là y việc sáu căn thủ riêng sáu trần, nên nói ‘phân ly’. Cũng hay phân biệt các thứ sự tướng quá khứ, vị lai, trong, ngoài nên cũng gọi là ‘phân biệt sự thức’
‘Thức này y nơi …’ là nói thức này y vào đâu mà khởi. ‘Kiến’, là kiến nhất xứ trụ địa. ‘Ái’, là ba loại ái của cõi Dục và cõi Sắc, là tu đạo hoặc. Vì hai cái hoặc kiến và tu[14] này huân vào bản thức khiến biến sinh phân biệt sự thức, nên nói ‘tăng trưởng’.
Trong phần lục thô trên, Chấp thủ kế danh và Khởi nghiệp tướng đều nhập vào phần ý thức này. Trong phần lục nhiễm sau, Chấp tương ưng nhiễm cũng nhiếp thuộc đây.
Từ trên đến đây, nói về nghĩa nhân duyên sinh diệt xong.
[3] Tuy nói thấy hoa đốm trong hư không, nhưng thật là không có hoa đốm để thấy. Bởi mắt bệnh mới thấy có hoa đốm hiện ra trong hư không. Mắt không bệnh (mắt sáng) thì không có hoa đốm.
[4] Do ‘Y tha khởi’ mà thấy pháp dường như có.
[5] Do biến kế sở chấp nên thấy pháp như thật, là cái thấy hiện nay của chúng ta.
[6] Vô minh là chỗ y tựa của phiền não ngại, nên gọi vô minh là sở y.
[11] Liên trì : Giữ gìn nối tiếp liên tục.
[14] Tu, là chỉ cho tu đạo hoặc, tức chỉ cho ái.
Các tin khác
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (31/03)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (1) (31/03)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (2) (31/03)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (4) (31/03)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHĨA KÝ (5) (31/03)