Quyển 1
MỞ ĐẦU– PHẦN NHÂN DUYÊN – PHẦN LẬP NGHĨA
Phàm chân tâm rỗng không, nơi thuyên đề[1] thì tuyệt ngôn tượng. Lặng lẽ tịch diệt, nơi năng sở mà mất cảnh trí. Không sinh không diệt, tứ tướng không đổi. Không đến không đi, tam tế không dời. Chỉ lấy vô trụ làm tánh, tùy dòng phân nhánh, theo mê ngộ mà lên xuống, thuận nhân duyên mà khởi diệt. Tuy dấy khởi nhung nhúc mà chưa từng động nguồn tâm, yên tĩnh hư đọng mà chưa từng nghịch với nghiệp quả, khiến cho tánh thì bất biến mà duyên khởi nhiễm tịnh hằng sai khác. Không xả duyên mà ngay nơi chân, phàm thánh chí nhất. Giống như sóng không khác nước động nhưng nước mà nói là sóng. Nước không khác nguồn của động nhưng sóng mà nói là nước. Nghĩa là, động tĩnh giao nhau, chân tục dung hợp, sanh tử niết bàn bình đẳng đồng quán.
Chỉ vì khi Như Lai còn tại thế, căn thuần dễ điều phục, một lời của Như Lai không gì không là huyền khế. Sau khi Đại sư mất, dị chấp rối rắm, hoặc là hướng đường tà, hoặc rơi vào lối tẻ, khiến cho bảo tạng trong nhà không thể tế trợ cho kẻ cô cùng, minh châu trong áo chẳng thoát được nghèo mà phải làm thuê.
Thâm chỉ Đại thừa thâm trầm đầy đủ mà chẳng tìm, chung cùng với kẻ mù, đuổi theo dị chấp rồi đi mãi. Bởi đó, có đại sĩ hiệu là Mã Minh bùi ngùi cho cái mãng suy tàn, thương tiếc cho sự trầm luân của người đời, muốn giải bày diệu chỉ của thâm kinh, soi lại đường tối, gạt bỏ con mắt tà kiến, khiến người qui về đường chính, cũng làm cho kẻ hoàn nguyên có thể ngay đó phản bổn chẳng xa.
Tạo luận rộng đối với đương thời, ích gì nhiều phẩm. Đã văn nhiều nghĩa xa thì chẳng phải là chỗ thấy của sự nhận thức nông cạn. Thương cho hàng cành lá mê muội đó mà Đại sĩ tạo luận này. Có thể nói, nghĩa thì phong phú mà văn lại thu tóm, giải hạnh đều kiêm, dòng trung hạ nhân đó có thể ngộ nhập.
ĐẠI, lấy “bao hàm” làm nghĩa.
THỪA, lấy “chuyển tải” làm công.
KHỞI, là đối cảnh dấy tâm.
TÍN, là đối với duyên mà quyết định.
Chiết trưng[2] qua lại, gọi là LUẬN.
Nên gọi là ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN.
Các nghĩa còn lại sẽ nói sau. Muốn giải thích luận này, khai triển lược có 10 môn:
1. Nhân duyên giáo xuất hiện
2. Nhiếp thuộc các tạng
3. Hiển phần hạn của giáo
4. Căn khí
5. Giáo thể (Năng thuyên)
6. Tông thú (Sở thuyên)
7. Giải thích đề mục của luận
8. Thời tiết tạo luận
9. Niên đại phiên dịch
10. Theo văn giải thích
I. NHÂN DUYÊN GIÁO XUẤT HIỆN
Lược có 10 nhân:
1/ Y nơi trí nào?
2/ Hiển pháp gì?
3/ Hiển thế nào?
4/ Lấy gì hiển?
5/ Y vào gốc nào?
6/ Nương vào lực nào?
7/ Vì nghĩa gì?
8/ Do duyên gì?
9/ Vì sao khởi?
10/ Lợi ích
1/ Y nơi trí nào? : Y nơi cái trí khế suốt nguồn tâm của Luận chủ, tùy cơ mà có lời nói xảo diệu. Luận Thập Địa nói: “Thán biện tài có ba loại : 1/Chân thật trí, là trí vô lậu. 2/Thế tánh thành tựu vô lượng nghĩa biện tài. 3/Quả tự nghĩa thành tựu, cũng gọi là Hoặc lợi thắng thượng tự nghĩa thành tựu”. Giải thích: Loại biện tài đầu, thì căn bản trí làm chỗ y. Loại biện tài thứ hai, thì hậu đắc trí làm nhân. Loại biện tài thứ ba, thì ngôn thuyết giáo làm quả. Cho nên, giáo xuất hiện là y vào trí.
2/ Hiển pháp gì?: Là hiển các pháp một tâm, hai môn, ba đại, bốn tín, năm hạnh. Đây chính là pháp “khởi tín” trong Đại thừa, là cái được hiển (sở hiển).
3/ Hiển thế nào? : Dùng phương tiện thiện xảo khai một vị Đại thừa thành hai loại PHÁP và NGHĨA, phân một tâm pháp thành HAI MÔN, chia một nghĩa lý thành BA Đại. Do thiện xảo này mà được khai thị.
4/ Lấy gì hiển? : Lấy diệu âm, thiện tự, thí dụ, tông, nhân mới khiến nghĩa lý hiển hiện rõ ràng.
5/ Y vào gốc nào? : Lấy Phật lý ngôn cùng với chánh đạo lý định lượng làm nền tảng.
6/ Nương vào lực nào? : Là qui mạng Tam bảo. Nương lực đó thỉnh cầu gia bị. Nương vào thắng lực đó, có sở phân biệt nên tạo luận.
7/ Vì nghĩa gì? : Giúp Phật giáo hóa, tồi tà hiển chánh, hộ trì di pháp,[3] khiến pháp được trụ thế dài lâu, báo đền ân Phật.
8/ Do duyên gì? : Là duyên đối với chúng sinh. Muốn họ lìa tất cả khổ được cái lạc rốt ráo nên tạo luận này.
9/ Vì sao khởi? : Vì trong đại bi của Bồ-tát có lòng xót thương sự trường mê của chúng sinh. Do đây mà tạo luận, pháp thí quần phẩm.
10/ Lợi ích bao nhiêu? Lược có 6 loại :
. Với ai chưa tin thì khiến sanh tín tâm.
. Với ai đã tin thì khiến được văn tuệ.[4]
. Với ai đã được văn tuệ thì khiến được tư tuệ.
. Với người đã tư tuệ hiểu rồi thì khiến tu tuệ.
. Với ai đã tu hành thì khiến chứng nhập.
. Với ai đã chứng nhập thì khiến viên mãn.
Lược có 10 nhân duyên như thế khiến giáo này xuất hiện.
Cũng có 6 nhân như như Du-già q.64 nói: “Muốn tạo luận cần đầy đủ 6 nhân: 1/Muốn khiến pháp nghĩa lưu bố rộng rãi. 2/Muốn khiến các hữu tình tin và hiểu do nhân duyên đó mà tùy theo khả năng có thể nhập chánh pháp. 3/Vì để mọi nghĩa môn đã bị mất được khai hiển lại. 4/Vì muốn lược nhiếp các nghĩa rộng nhưng rời rạc. 5/Vì để hiển nghĩa thậm thâm. 6/Vì muốn dùng mọi thứ ngôn từ mỹ diệu trang nghiêm pháp nghĩa khiến sinh tịnh tín”. Tám nhân duyên của luận này cùng với Thập trụ Tì-bà-sa và Đại Tì-bà-sa v.v… mỗi luận đều có nhân duyên của nó. Có thể tìm hiểu để biết.
II. NHIẾP THUỘC CÁC TẠNG
Nói về phần hạng tạng nhiếp thì có hai: 1/Ứng vào Sở thuyên là ba, nên giáo thành ba. 2/Ứng vào Sở vi[5] là hai, nên giáo thành hai.
1. Ứng vào Sở thuyên : Vì nói đủ tam học[6] nên lập tam tạng :
a. Tạng Tu-đa-la : Còn gọi là Tố-đát-lãm hay Tu-đố-lộ, đều là tên bằng tiếng Phạn, khó được suôi tai. Đây dịch thành Khế kinh. Vì khế lý hợp cơ nên gọi là KHẾ, xâu suốt nối kết chỗ thiết yếu mà thành KINH. Luận Phật Địa nói: “Quán xuyên nhiếp trì thuyết nghĩa đã ứng với mọi căn cơ, nên gọi là Tố-đát-lãm, là giáo thuyên định”. Khế kinh tức là tạng, thuộc Trì nghiệp thích.
b. Tạng Tì-nại-da : Còn gọi là Tì-na-da hay Tì-ni.
Xưa, dịch là “Diệt”. Vì thân, ngữ ý ác thiêu đốt hành giả, nghĩa đồng với lửa cháy, giới có thể dừng diệt, nên gọi là “Diệt”. Cũng nói là “Thanh lương”, vì có thể dừng đi tướng lửa nóng của ác nghiệp.
Nay, dịch thành “Điều phục”. “Điều” là điều hòa. “Phục” là chiết phục. Là điều hòa chế ngự thân khẩu ngữ ý nghiệp, chế phục trừ diệt các ác hạnh. “Điều phục” là hạnh, là giới hạnh sở thuyên. “Điều phục” là tạng, thuộc Y chủ thích, vì từ sở thuyên mà được tên.
c. Tạng A-tì Đạt-ma : Cũng gọi là A-tì-vân.
Xưa dịch là pháp Vô tỉ. Vì A-tì là vô tỉ. Đạt-ma là pháp. Là trí vô phân biệt phân biệt pháp tướng. Không có pháp nào có thể sánh với pháp này nên nói là vô tỉ.
Nay, dịch là Đối pháp. Vì A-tì là trí năng đối. Đạt-ma là cảnh pháp sở đối. Là dùng chánh trí diệu tận nguồn pháp, giản trạch pháp tướng, phân minh rõ ràng như đối diện với lòng bàn tay mà thấy chỉ tay, nên nói đối pháp. Đối pháp là tuệ sở thuyên, là tạng Đối pháp, thuộc y chủ thích. Theo sở thuyên làm đề mục. Cũng có khi gọi là Phục pháp, Trạch pháp, Số pháp, Thông pháp, Đại pháp v.v… là tùy theo nghĩa mà gọi tên.
Hỏi: Nếu tam tạng đối với tam học đều nói một học, vì sao luận Tạp Tập q.11 nói : «Lại nữa, khai thị tam học lập Tố-đát-lãm. Khai thị giới và định gọi là Tì-lại-da. Khai thị tuệ học gọi là A-tì-đạt-ma»?
Đáp : Nếu y theo Khắc tánh môn thì như trước, đều nói một. Nếu y theo Kiêm chánh môn thì như luận Tạp Tập nói. Vì kinh rộng nên đầy đủ ba. Luật ít rộng hơn nên đủ hai. Luận hẹp, nên chỉ một. Cũng là bản mạt môn, vì kinh là bản. Hai thứ còn lại theo thứ lớp là mạt.
Trong tam tạng, luận này nhiếp thuộc Đối pháp tạng.
Hỏi : Du-già q.81 nói : «Các kinh điển, tuần hoàn nghiên cứu ma-đát-lý-ca. Cũng như tất cả kinh liểu nghĩa đều gọi là Ma-đát-lý-ca. Vì đối với xứ này, Thế Tôn tự phân biệt rộng các pháp tướng». Y theo văn đây thì dù là tạng Đối pháp, cũng là Phật thuyết. Luận này Bồ-tát đã thuyết sau khi Như Lai nhập niết bàn, sao lại xếp vào tạng Đạt-ma?
Đáp: Có hai nghĩa.
1. Theo Du-già thì thuộc chủng loại đây nên nhiếp thuộc đây.
2. Theo kinh Ma-ha-ma-da, Phật có nói «Mã Minh khéo thuyết pháp yếu ». Đã nói « khéo thuyết » thì biết Như Lai đã huyền ký, nên cũng được xếp vào tạng này. Nhân đây mà luận chung, Như Lai thuyết pháp có ba loại:
1/ Phật tự thuyết.
2/ Gia bị cho người khác thuyết.
3/ Huyền ký thuyết.
Luận này tương đương với huyền ký thuyết.
2. Ứng vào sở vi
Ứng vào sở vi mà giáo thành có hai. Chỉ là vì căn có lợi độn, pháp có cạn sâu, nên hợp tam tạng phân thành hai loại. Luận Trang Nghiêm q.4 nói : «Tạng này là do các thừa trên dưới có sai biệt». Cũng gọi là Thanh văn tạng và Bồ-tát tạng.
Hỏi: Sao gọi ba thứ trên cùng với hai thứ này là tạng?
Đáp: Vì nhiếp, là nhiếp tất cả tri nghĩa đã ứng.
Giải thích: Vì Thanh văn độn căn ở thừa dưới, nên y nơi pháp chấp phân biệt mà lập bày tam tạng, giải thích chỉ bày lý hạnh quả v.v… của Thanh văn, gọi là Thanh văn tạng. Vì Bồ-tát lợi căn ở thừa trên, nên y nơi ba vô tánh và hai vô ngã trí mà lập bày tam tạng, giải thích chỉ bày lý hạnh vị quả của Bồ-tát, gọi là Bồ-tát tạng.
Hỏi: Trong kinh, vì các Duyên giác mà thuyết pháp Nhân duyên. Vì sao không lập tạng danh cho Độc giác?
Đáp: Theo kinh Phổ Siêu Tam Muội và Nhập Đại Thừa Luận, thì ứng vào Tam thừa mà lập tam tạng. Nay y vào Nhiếp Luận và Trang Nghiêm Luận, ứng vào các thừa trên dưới mà phân thành hai tạng nên chẳng lập.
Hỏi: Vì sao hai giáo, phế và lập chẳng đồng?
Đáp: Chỉ vì Độc giác và Thanh văn có đồng có khác. Nếu ứng vào giáo hạnh thì có ít phần không đồng, nên phân thành tam thừa tạng. Còn ứng vào lý quả toàn thể thì không khác, nên hợp thành một tạng. Vì đồng đoạn ngã chấp, đồng chứng Sanh không, quả đồng La hán nên không lập riêng. Vì thế, kinh luận có khai và hợp không đồng. Như vậy, luận này nhiếp thuộc Bồ-tát tạng trong hai tạng.
III. HIỂN PHẦN HẠN CỦA GIÁO
Trong đó có hai. Trước là trình bày các giáo. Sau là theo giáo nói tông.
1. Trình bày các giáo: Phương này, các bậc Tôn đức lập giáo khai tông lắm mối nhiều đường, khó có thể trình bày đầy đủ. Đây chỉ lược thuật 10 nhà như trong Hoa Nghiêm Sớ đã nói. Lại, việc dịch kinh thời xưa, Tam tạng từ Tây Trúc đến, lập ra giáo cũng có nhiều môn. Lược nêu 5 nhà như Hoa Nghiêm Sớ đã nói.
Nay, Tam tạng pháp sư ở Trung Thiên Trúc là Địa-bà-ha-la, nhà Đường gọi là Nhật Chiếu, đang ở chùa phiên dịch kinh. Thân cận rồi, tôi mới hỏi thì được biết rằng: Gần đây, tại chùa ở Thiên Trúc, đồng thời có hai đại đức luận sư, một là Giới Hiền, hai là Trí Quang, đều là thần giải tuyệt luân, danh vang khắp Ngũ Ấn. Lục sư kính ngưỡng. Các bộ khác đều qui thành. Học nhân Đại thừa kính họ như mặt trời mặt trăng. Độc bộ Thiên Trúc đều một người mà thôi[7]. Cho nên tông thừa có khác, lập giáo trái nhau.
. Ngài Giới Hiền : Xa thì tiếp thừa Di Lặc, Vô Trước. Gần thì nối tiếp Hộ Pháp, Nan Đà. Y nơi kinh Thâm Mật, luận Du-già v.v… lập ra ba loại giáo. Lấy Đại thừa pháp tướng làm chân liễu nghĩa. Đó là:
Thời đầu, Phật ở vườn Lộc Uyển chuyển pháp luân, dạy pháp Tứ đế cho hàng Tiểu thừa, nói các pháp hữu vi đều từ duyên sinh, để phá cái chấp các nhân có tự tánh v.v… của ngoại đạo. Lại, do duyên sinh thì không có nhân ngã, nên cũng phá luôn thuyết có ngã của ngoại đạo. Song còn chưa nói đến lý pháp vô ngã. Đó là bốn bộ A-hàm v.v…
Vào thời hai, tuy y biến kế sở chấp mà thuyết các pháp tự tánh đều không, phá cái chấp của Tiểu thừa, nhưng đối với Y tha và Viên thành còn chưa nói có. Là các bộ Bát-nhã v.v…
Vào thời ba, ngay nơi chánh lý Đại thừa nói đủ tam tánh, tam vô tánh v.v… mới là tận lý. Đó là kinh Giải Thâm Mật v.v…
Cho nên, đối với pháp nhân duyên sinh, thời đầu chỉ nói có, là rơi vào hữu biên. Thời kế chỉ thuyết không, là rơi vào không biên. Đã đều rơi vào biên thì đều không phải là liễu nghĩa. Thời sau, nói đủ : Sở chấp tánh không, hai thứ còn lại là có,[8] khế hợp trung đạo, mới là liễu nghĩa. Đây là y vào kinh Giải Thâm Mật mà phán định.
. Luận sư Trí Quang : Xa thì tiếp thừa Văn-thù, Long Thọ. Gần thì nối tiếp Đề-bà, Thanh Biện. Y theo các bộ Bát-nhã, Trung Quán v.v… cũng lập tam giáo. Lấy Đại thừa vô tướng làm chân liễu nghĩa. Đó là:
Thời đầu, Phật ở vườn Lộc Uyển, vì hàng tiểu căn dạy pháp Tứ đế, nói tâm cảnh đều có.
Thời giữa, vì hàng trung căn thuyết Đại thừa pháp tướng, nói đạo lý Duy thức cảnh không, tâm có. Vì căn cơ còn yếu, chưa thể khiến nhập chân không bình đẳng, nên nói như thế.
Thời ba, vì hàng thượng căn thuyết Đại thừa vô tướng, nói tâm cảnh đều không, một vị bình đẳng là chân liễu nghĩa.
Lại, thời đầu là phá dần cái chấp có tự tánh của ngoại đạo, nên nói pháp nhân duyên sinh quyết định là có. Thời kế, phá dần cái chấp nhân duyên sinh thật có của Tiểu thừa, nên nói Y tha, là nhân duyên giả có. Vì họ sợ chân không, nên còn ở nơi cái giả có mà dẫn nhiếp họ. Thời sau, mới ngay nơi chỗ rốt ráo của Đại thừa, thuyết nhân duyên sinh chính là tánh không nhất tướng bình đẳng. Cho nên, phán định Đại thừa pháp tướng có sở đắc v.v… vào thời thứ hai, chưa phải là chân liễu nghĩa. Thứ lớp của tam giáo này, trong Bát-nhã Đăng Luận Thích, luận sư Trí Quang đã dẫn kinh Đại Thừa Diệu Trí mà nói.
Hỏi : Hai thuyết này, đều là thánh giáo mà mâu thuẫn nhau, chưa biết hai thuyết có thể hòa hội chăng?
Đáp : Đây có 2 nghĩa: Chẳng hội và không chẳng hội.
1. Chẳng hội : Đã đều là thánh giáo thì tùy duyên mà ích vật, sao cần phải hội? Chính là «Các các vị nhân tất đàn» thuộc Tứ tất đàn trong luận Đại Trí Độ. Cho nên, chỉ có nghịch nhau mà không thể hội. Đó cũng là «Chúng sinh nhạo dục ý thú» thuộc Tứ ý thú trong Nhiếp Luận, là trong một pháp có khi tán thán, có khi chê bai. Do đó hai thuyết không cần hòa hội.
2. Không chẳng hội : Luận chung về chỗ lập của hai giáo môn này thì liễu và bất liễu nghĩa có hai môn : Một, xét việc nhiếp sanh rộng hay hẹp, ngôn giáo đủ hay thiếu mà biết liễu hay bất liễu nghĩa. Hai, xét thứ lớp ích vật lợi sinh, hiển lý tăng hay suy để biết liễu hay bất liễu nghĩa.
1/ Nhiếp sanh rộng hẹp, ngôn giáo đủ thiếu :
. Nhiếp sanh rộng hay hẹp : Y vào kinh Giải Thâm Mật, thời đầu chỉ vì hàng phát tâm hướng về Thanh văn thừa mà thuyết. Thời hai, chỉ vì hàng phát tâm hướng về Đại thừa mà thuyết. Hai thời này đều chỉ nhiếp một loại căn cơ. Nhiếp cơ không hết nên không phải liễu nghĩa. Thời ba, đều vì hàng phát tâm hướng về tất cả thừa mà thuyết. Trong đó nhiếp cơ đều đủ các thừa, nên nói «đều vì tất cả thừa mà thuyết», nhiếp cơ đều tận mới là liễu nghĩa.
. Ngôn giáo đủ hay thiếu : Ứng vào cơ mà phân biệt giáo. Thời đầu, chỉ thuyết Tiểu thừa. Thời hai chỉ thuyết Đại thừa. Thời ba, thuyết đủ Tam thừa. Hai giáo đầu đều thiếu không đủ, nên không phải là liễu nghĩa. Một giáo sau đủ cả Tam thừa, tức giáo đầy đủ, mới là liễu nghĩa. Do các nghĩa này, thời ba mới là liễu nghĩa.
Chỗ lập giáo của ngài Giới Hiền là y vào môn này mà phán định.
2/ Thứ lớp ích vật lợi sinh, hiển lý tăng hay suy :
. Thứ lớp ích vật lợi sinh : Thời đầu, chỗ thuyết giảng chỉ khiến chúng sinh được lợi ích của hàng Tiểu thừa. Chỗ lợi ích đó chưa phải rốt ráo, nên không phải là liễu nghĩa. Thời hai, tuy lợi ích thông cả Đại và Tiểu nhưng không thể khiến hàng Nhị thừa thú hướng không tịch cũng được Đại thừa, nên thuyết này cũng chưa phải tận lý. Thời ba, đều khiến được lợi ích của Đại thừa. Dù là kẻ nhập tịch diệt cũng khiến hồi hướng đại bồ-đề. Kinh nói: «Chỉ một sự này thật. Còn hai thì không phải chân». Lại nói: «Nếu dùng Tiểu thừa giáo hóa, ta ắt rơi vào san tham. Việc đó thì không thể». Cho nên, thuyết này mới là liễu nghĩa.
. Hiển lý tăng hay suy : Thời đầu thuyết Duyên sinh, cho đó là thật có. Thời hai, thuyết Duyên sinh cho đó là giả có. Thời sau mới thuyết Duyên sinh tánh không. Hai thời trước hiển lý chưa đầy đủ, hội duyên chưa tận, nên không phải là liễu nghĩa. Một thời sau hiển lý đến cứu cánh, hội duyên tương tận, nên là liễu nghĩa. Do các nghĩa này, thời ba mới là liễu nghĩa rốt ráo của Đại thừa. Thời đầu chỉ có Tiểu thừa. Thời hai, đầy đủ Tam thừa. Thời ba, chỉ có Nhất thừa.
Chỗ lập giáo của ngài Trí Quang là theo môn này mà phán định.
Do có hai loại môn như vậy, nên thánh giáo đều y vào một thế để rõ quyền thật, chẳng trái nghịch nhau. [9]
Hỏi : Như đã nói, hai tông thời đầu đều chỉ thuyết Tiểu thừa, sao Hoa Nghiêm thời đầu cũng có thuyết mà không phải Tiểu thừa.
Đáp : Vấn nạn này, các bậc tôn đức có ba cách giải thích :
1. «Ứng vào căn cơ tiệm ngộ, lập Tam pháp luân mà có thứ lớp này. Nếu là hàng căn cơ đốn ngộ thì đầu tiên cũng thuyết Hoa nghiêm v.v…». Nếu vậy, kinh Lực Sĩ Mật Tích, thời đầu thuyết đủ pháp Tam thừa, vậy đó là tiệm hay là đốn? Nếu là tiệm giáo thì chỉ nên thuyết Tiểu thừa. Nếu là đốn giáo thì chỉ nên thuyết Đại thừa. Cho nên khó giải thích.
2. «Nếu y nơi Hiển liễu môn thì có ba pháp thứ lớp như trước. Nếu ứng vào Bí mật môn thì đồng thời đều có». Nếu vậy, thời đầu Tiểu hiển mà Đại mật, sao chẳng là Đại hiển mà Tiểu mật? Lại, phán định cái hiển mật này là bắt nguồn từ thánh giáo nào? Lý đã không chỉnh, lại không có thánh giáo làm chứng, nên cũng khó mà y theo.
3. «Chỉ là viên âm của Như Lai, một khi nói ra các loài khác nhau đồng hiểu. Ngay nơi Tiểu mà kiết tập thì chỉ thuyết Tiểu. Ngay nơi Đại mà kiết tập thì chỉ thuyết Đại. Ngay nơi chỗ chung mà kiết tập thì thuyết Tam thừa». Nếu vậy, khi thuyết Hoa Nghiêm, sao Thanh văn không nghe theo cái nghe của mình mà lại như đui như điếc không thấy không nghe. Đây cũng khó giải thích.
Nay giải thích vấn nạn này như sau: Phàm, luận về viên âm thuyết pháp của Như Lai, đại lệ có hai : Một, vì người có định căn trong đời này mà thuyết. Hai, vì người không có định căn trong đời này mà thuyết.
1. Vì người có định căn trong đời này : Có ba bực.
a. Với chúng sinh đời này có định tánh Tiểu thừa, thì chỉ thấy Như Lai trước sau chỉ thuyết Tiểu thừa. Như các bộ Tiểu Thừa không tin vào Đại thừa.
b. Với chúng sinh đời này căn tánh Đại thừa đã thuần thục, thì chỉ thấy Như Lai trước sau chỉ thuyết Tam thừa. Như kinh Lực Sĩ Mật Tích nói : «Đầu tiên khi Phật thuyết pháp ở vườn Lộc Uyển, vô lượng chúng sinh đắc quả A-la-hán, vô lượng chúng sinh được đạo Bích Chi Phật, vô lượng chúng sinh phát bồ-đề tâm, trụ vào Sơ địa…». Kinh Đại Phẩm cũng thuyết đồng với đây. Cho nên, thời sau chỗ thuyết đều thông Tam thừa như các kinh Đại thừa đã nói.
c. Với chúng sinh đời này có căn tánh Nhất thừa thuần thục, thì chỉ thấy Như Lai thời đầu, ở dưới thọ vương trong Hoa Tạng giới, y nơi Hải ấn tam muội thuyết vô tận pháp môn viên mãn tự tại và chỉ thuyết cho hàng Bồ-tát như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Cho nên các thuyết đều y cứ vào căn nghiệp có được hiện đời thì không trái nhau.
2. Vì người không có định căn trong đời này : Có hai vị.
a. Với người, đời này Tiểu thừa không phải là định căn, có thể tiến nhập vị Tam thừa, thì đầu tiên nghe giáo của Tiểu thừa cho là bất liễu nghĩa. Kế, chỉ nghe thuyết Đại thừa cũng cho là bất liễu nghĩa. Sau, nghe thuyết đủ Tam thừa mới cho là liễu nghĩa. Nên có ba thời giáo trong kinh Thâm Mật.
b. Với người đời này mà Tiểu thừa không phải là định căn, có thể tiến nhập vị Nhất thừa, thì đầu tiên nghe giáo của Tiểu thừa cho là bất liễu nghĩa. Kế, nghe thuyết thông cả Tam thừa cũng cho là bất liễu nghĩa. Sau, chỉ nghe thuyết Nhất thừa mới cho liễu nghĩa. Chỗ lập giáo của ngài Trí Quang tương đương với đây.
Cho nên, do có hai vị sai biệt là định và bất định căn trong đời này mà giáo môn thành có trước sau hay không có trước sau.
Từ trên đến đây, trình bày các giáo đã xong.
2. Theo giáo nói tông : Hiện nay, Đông lưu tất cả kinh luận gồm cả Đại Tiểu thừa. Tông đồ có bốn :
1. Tùy tướng pháp chấp môn : Là các bộ Tiểu thừa. Lấy «Tùy sự chấp tướng» mà nói. Do các bộ Tiểu thừa lập.
2. Chân không vô tướng tông : Là các bộ kinh Bát-nhã, luận Trung Quán v.v… Lấy «Hội sự hiển lý» mà nói, do Long Thọ và Đề-bà lập.
3. Duy thức pháp tướng tông : Là các kinh Giải Thâm Mật, luận Du-già v.v… «Y lý khởi sự sai biệt» mà nói, do Vô Trước và Thế Thân lập.
4. Như Lai tạng duyên khởi tông : Là các kinh Lăng-già, Mật Nghiêm, luận Khởi Tín, Bảo Tánh v.v… Lấy «Lý sự dung thông vô ngại» mà nói. Vì tông này cho phép Như Lai tạng, tùy duyên mà thành thức A-lại-da, là lý triệt nơi sự. Cũng cho phép Y tha duyên khởi không tánh đồng với như, là sự triệt nơi lý. Tông này do Mã Minh, Kiên Tuệ lập.
Bốn tông này cũng không có trước sau, thời hạn sai biệt. Trong các kinh luận cũng có chỗ giao xen, nên có thể theo đó mà biết. Tông ý của luận này tương đương với tông thứ tư.
IV. CĂN KHÍ
Có hai lớp :
1. Ứng vào quyền giáo : Là chủng tánh Bồ-tát và bất định tánh trong 5 loại tánh. Đây là hàng căn khí của luận này. 3 thứ còn lại không phải vì không có phần, như Du-già đã nói.
2. Ứng vào thật giáo : Tất cả chúng sinh đều là hàng có căn khí với luận này. Vì ai cũng sẽ được bồ-đề.
Hỏi : Nếu người không tánh cũng sẽ thành Phật thì sao có thể nói hữu tình có tánh, không tánh?
Đáp : Luận có hai cách giải thích: Phật Tánh Luận và Bảo Tánh Luận đồng vì người phỉ báng Đại thừa, y nơi vô lượng thời mà nói như thế. Không phải là rốt ráo không có tánh thanh tịnh. Trong luận Phật Tánh q.2, phán thuyết không có Phật tánh là giáo bất liễu nghĩa. Y đó cần biết, việc «vĩnh viễn không có chủng tánh Phật» không phải là tận lý mà thuyết. Lăng-già đã nói, có thể biết.
Hỏi : Như có người nạn rằng: «Nếu các chúng sinh có Phật tánh nhất định sẽ thành Phật thì chúng sinh dù nhiều, cũng phải có lúc hết. Đó là lỗi lớn. Lại, nếu đều có tánh thì sẽ khiến Bồ-tát tối hậu thiếu hạnh lợi tha, vì không có các chúng sinh để giáo hóa, thiếu hạnh thành Phật, không tương ưng với lý đạo. Cũng khiến công đức lợi tha của chư Phật bị đoạn tuyệt. Vì không có căn cơ duyên cảm để giáo hóa». Ba vấn nạn đó làm sao hiểu được ?
Đáp : Nạn vấn như thế đều do vọng kiến chúng sinh giới mà vọng khởi vấn nạn ấy. Kinh Bất Tăng Bất Giảm nói : «Người đại tà kiến thấy chúng sinh giới tăng, thấy chúng sinh giới giảm. Vì chẳng như thật biết nhất pháp giới, nơi chúng sinh giới khởi cái thấy tăng giảm».
Hỏi : Nghĩa mà tôi nói đó là giúp cho văn kinh này. Vì sao? Nếu các chúng sinh thảy đều có tánh, đều sẽ giải thoát, thì chúng sinh có giảm. Nay lập có chúng sinh vô tánh thường tại thế gian này, thì không có tăng giảm.
Đáp : Ông một khi đối với cái có tánh đã khởi cái thấy giảm, thì với Phật giới nhất định sẽ khởi cái thấy tăng. Cái thấy tăng giảm này không lìa cái chấp của ông. Phải biết, ý kinh muốn nói tất cả chúng sinh nhất thời thành Phật, Phật giới chẳng tăng, chúng sinh giới chẳng giảm. Kinh nói: «Chúng sinh tức là pháp thân. Pháp thân tức là chúng sinh. Chúng sinh và pháp thân, nghĩa một mà danh khác». Giải thích : Ví chúng sinh giới như hư không giới. Giả như chim bay trong hư không, từ tây sang đông, dù trăm ngàn năm, cũng chẳng được nói đông gần mà tây xa. Vì sao? Vì hư không không có phần hạn. Cũng không được nói hoàn toàn không có bay đi, vì công chẳng phải không. Phải biết đạo lý ở đây cũng như thế. Chẳng phải có diệt độ khiến có chung tận, chẳng phải không có chung tận mà có cái không diệt độ.[10] Nên chúng sinh giới thậm thâm quảng đại chỉ là trí sở tri cảnh của Như Lai. Không thể dùng cuồng tâm đắn đo hạn lượng khởi cái thấy tăng giảm. Đã không có tận thì ba vấn nạn không gì không thể lìa.
Nhị thừa hồi tâm, nếu có chủng tánh bất định, chưa nhập vô dư mà trước đã hồi tâm thì không cần phải nói. Nếu có chủng tánh quyết định,[11] chưa nhập vô dư mà trước nhất định chẳng hồi tâm, thì cần phải nhập vô dư mới có thể hồi tâm. Vì hàng Nhị thừa vốn chẳng được vô dư y niết bàn giới. Phật Tánh Luận q.3 nói : «Hàng Nhị thừa có 3 loại dư : 1/Phiền não dư, là vô minh trụ địa. 2/Nghiệp dư, là vô lậu nghiệp. 3/Quả báo dư, là thân ý sanh thân biến dịch ». Lại, các kinh như Vô Thượng Y, Thắng Man, luận Bảo Tánh v.v… đã nói rộng: «Trong vô lậu giới có ba loại biến dịch sanh tử không thể nghĩ bàn là Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát». Nếu cho Nhị thừa nói đó là loại chủng tánh bất định, thì không đúng lý, vì chưa hồi tâm, còn có Phần đoạn sinh tử. Hồi tâm trở đi là Bồ-tát tiệm ngộ, không phải Nhị thừa. Luận nói Nhị thừa có ba loại dư, không phải Bồ-tát. Phải biết, đó nhất định là hàng Nhị thừa tự vị trong vô dư y mà Đại thừa nói có ba loại. Song hàng Nhị thừa này đã không biết có ba loại dư đó, nên hóa hỏa thiêu đi cái thân phần đoạn, nhập vô dư y. Pháp nhĩ đều có thân biến dịch báo tàn mà chư vị không biết, cho là niết bàn, mà thật chỉ là trước thân chưa thiêu.[12] Chỗ này là dùng diệt trí sở đắc diệt định. Pháp Hoa Luận nói: «Vì Phương tiện nhập niết bàn thành. Niết bàn thành là, các thiền tam muội thành, qua thành ấy rồi khiến nhập đại bát niết bàn thành». Giải thích : Do đây phải biết, vô dư của Nhị thừa, thể tuy diệt định cũng đều là phương tiện, nên nói ‘các thiền’. Do Nhị thừa, căn có lợi độn, diệt định phòng tâm chủng có cường nhược, ở trong định tột tám vạn cho đến nhất niệm. Do Phật căn dục tánh trí làm lực tăng thượng duyên, lại do lực Phật tánh vốn có, khiến tâm sinh lại trong tịnh độ, gặp Phật, Bồ-tá tvà thiện hữu tri thức tu Đại thừa đạo. Nhưng lợi, độn, mau, chậm, các thánh giáo lược có 7 vị : Tám vạn, sáu vạn, bốn vạn, hai vạn và một vạn kiếp. Theo thứ tự ứng vào tứ quả và hàng Độc giác. Năm vị này như kinh Niết Bàn đã nói. Vị thứ sáu, thì như Lăng Già nói : «Bị say rượu tam muội cho đến khi cái kiếp bất giác rượu tan, sau mới được thân vô thượng của Phật». Đây cũng là hàng lợi căn trước, không đến vạn kiếp. Vị thứ bảy, như Pháp Hoa q. 3 nói : «Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử chẳng nghe kinh này, chẳng biết chẳng giác sở hành của Bồ-tát, đối với những công đức đã có, tự sanh cái tưởng diệt độ nhập niết bàn. Ta ở nơi các quốc độ khác làm Phật, lại có các tên khác. Người ấy tuy sanh cái tưởng diệt độ, nhập niết bàn, nhưng ở nơi quốc độ kia cầu Phật trí tuệ, được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ, hoàn toàn không có thừa nào khác, trừ các phương tiện thuyết pháp của Như Lai». Giải thích : Hạng tối lợi căn này cũng xả Phần đoạn sinh tử nhập niết bàn rồi, ở nơi Phật độ, thọ thân biến dịch, chịu sự giáo hóa của Phật, nhập vào Đại thừa.
Cũng có người giải thích kinh này như sau : Đó là hàng Thanh văn biến hóa. Lý này nhất định chẳng phải. Nếu là hàng biến hóa, thì ắt là do dẫn nhiếp thật loại chúng sinh. Nếu chúng sinh kia chịu sự dẫn nhiếp này, cũng lại học cái ‘trước nhập niết bàn vô dư, sau mới hồi tâm’, mà ông thì cho vô dư như tro tàn đoạn tận, tức sự dẫn nhiếp kia là lầm lẫn. Như vậy chư Phật và Bồ-tát v.v… đối với chúng sinh lại thành đại oán, sao gọi là đại bi phương tiện nhiếp hóa? Đã không phải lý đó thì biết ‘nhập diệt hồi tâm’ nhất định không phải là hàng biến hóa. 7 vị trên đây đều là Nhị thừa định tánh nhập diệt rồi mới hồi tâm, không đồng với hàng bất định tánh chưa nhập tịch mà đã hồi tâm.
Hỏi: Tất cả Nhị thừa định tánh nhập tịch đều hồi tâm hay có người không hồi tâm?
Đáp : Tất cả đều hồi tâm. Vì sao biết? Pháp Hoa Luận nói : «Thọ ký cho hàng Thanh văn có hai hạng : 1/Như Lai. 2/Bồ-tát bất khinh. Thanh văn được thọ ký có 4 hạng: 1/Quyết định Thanh văn. 2/Tăng thượng mạn Thanh văn. 3/Thối bồ-đề tâm Thanh văn. 4/Ứng hóa Thanh văn». Hai hàng thanh văn sau vì căn đã thuần thục nên Phật thọ ký. Vì ứng hóa Thanh văn thối tâm rồi, phát tâm trở lại. Còn định tánh Thanh văn và tăng thượng mạn Thanh văn, vì căn chưa thuần thục, nên Bồ tát hứa ký, phương tiện khiến phát bồ-đề tâm. Giải thích : Quyết định thanh văn đã được thọ ký nên biết, nhất định sẽ phát bồ đề tâm. Đã nói căn chưa thuần thục chứ không nói tất cả không thuần, nên biết nhất định có tánh. Luận đó cũng nói : «Ta chẳng khác ông. Các ông đều sẽ thành Phật» là dạy các chúng sinh đều có Phật tánh. Giải thích : Đây là Bồ-tát hứa ký để biết định tánh Thanh văn có Phật tánh.
Hỏi : Sao các kinh luận mới dịch đây nói có hàng định tánh Nhị thừa nhập tịch chẳng hồi tâm?
Đáp: Các kinh luận đó chỉ y cứ vào hàng định tánh chưa nhập tịch chẳng hồi tâm, còn hàng nhập tịch trở đi thì không nói, nên không trái nhau. Lại, giáo cũng có liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Biệt, như Phật Tánh Luận đã nói, nên chẳng có gì là lạ. Kinh Niết Bàn ghi : «Nói đến Phật tánh, hữu vô đều không thể hiểu ý ta» để thấy pháp Phật tánh lìa hữu ly vô, theo ngôn chấp thủ thì chẳng thể hiểu ý. Chẳng phải nói là có một phần vô tánh. Phật Tánh Luận nói : «Cho nên Phật tánh quyết định là có, ly hữu ly vô» chính là chỗ này. Vì thế, tất cả chúng sinh đều là hàng có căn khí với đó. Các kinh luận còn lại cứ y theo đây mà giải thích.
V. GIÁO THỂ NĂNG THUYÊN
Lược thành 4 môn : 1/Tùy tướng môn. 2/Duy thức môn. 3/Qui tánh môn. 4/Vô ngại môn.
1. Tùy tướng môn : có 4 câu.
1. Hoặc chỉ lấy danh, cú, văn làm tánh. Vì thanh là chỗ y không chánh thể. Luận Duy Thức nói: “Nếu danh cú v.v… chẳng khác thanh thì pháp từ vô ngại, cảnh ứng không phân biệt”.
2. Hoặc chỉ lấy âm thanh làm tánh, danh, cú, văn uốn lượn trên thanh, giả lập không thể. Luận Tạp Tập nói: “Sở thành dẫn nhiếp là thuyết của chư thánh”.
3. Hoặc lấy cả danh, cú, văn, âm thanh làm tánh. Kinh Duy Ma nói: “Có khi lấy âm thanh, ngữ ngôn, văn tự làm Phật sự”. Luận Thập Địa cũng nói: “Người thuyết dùng hai việc mà thuyết. Người nghe dùng hai sự mà nghe, là thanh, danh v.v…”.
Hỏi: Trong Đại thừa, thanh nêu rõ thiện ác mà thanh là vô ký. Danh, cú, văn cũng vô ký. Vì sao vô ký mà là thể của thánh giáo?
Đáp: Những gì do hậu đắc trí của chư Phật và Bồ-tát nói đều là thiện. Trong luận Thập Địa, danh thiện, tự v.v… cũng vậy.
4. Hoặc không cả danh, cú, văn, âm thanh làm tánh. Vì nói tức là chẳng nói. Vì văn tự ly tánh. Kinh nói: “Phàm người thuyết pháp không thuyết, không dạy. Còn người nghe pháp không nghe, không được”, là nói chỗ này.
Trong 4 thứ, 3 thứ trên thông hết Tiểu thừa. Nếu nói đầy đủ 4 thứ, thì là Đại thừa. Lại, 4 thứ trên hợp làm một giáo, có nhau vô ngại, là giáo Đại thừa.
2. Duy thức môn : Người nói là thức hiện làm tăng thượng duyên khiến người nghe nhận biết tướng văn nghĩa hiện. Luận sau nói: “Nếu lìa tâm niệm thì không có tướng tất cả cảnh giới”. Nhiếp Luận gọi là ngôn thuyết thức. Người nghe cũng là trên thức tụ tập mà hiện v.v… Cho nên tất cả thanh, danh, cú v.v... đều là sở hiện của tự tâm. Luận sau nói: “Chỉ y nơi tâm mà hiện, chẳng lìa chân như”.
3. Qui tánh môn : Thức này không có thể, chỉ là chân như. Luận sau nói: “Cho nên, tất cả pháp từ xưa đến nay, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng, không có biến khác, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi là chân như. Vì tất cả ngôn thuyết giả danh không thật, chỉ theo vọng niệm, không thể nắm bắt”. Cứ theo đó mà hiểu.
4. Vô ngại môn : 3 môn trên, tâm, cảnh, lý, sự đồng một duyên khởi dung hợp vô ngại, giao triệt nhiếp nhau, viên minh tự tại, không chướng ngại nhau, lấy đó làm giáo thể. Vì một tâm pháp, có hai môn. Vì đều tổng nhiếp tất cả pháp. Tư duy thì sẽ hiểu.
Ngũ giáo thông hết các pháp môn vì trùm khắp lục trần. Tất cả cảnh sở tri tổng lại thành nghĩa mà sinh hiểu biết, đều là giáo thể.
VI. TÔNG THÚ SỞ THUYÊN:
Trước là Tổng. Sau là Biệt.
1. TỔNG : Dùng một tâm pháp làm tông. Tín, hạnh, đắc quả làm thú. Tức đầy đủ ba thứ cảnh, hạnh, quả.
. Cảnh có hai loại : 1/Pháp. 2/Nghĩa, như văn sau.
. Hạnh có hai loại : 1/Hạnh thể, là 4 loại tín tâm. 2/Hạnh dụng, là 5 môn tu hành, như dưới nói.
. Quả có hai loại : 1/Phần quả, là khiến được nhập vị. 2/Mãn quả, là thành Như Lai.
Tông cùng với thú có gì khác biệt? Chỗ tôn chuộng của bộ kinh gọi là tông. Nơi qui về của tông gọi là thú.
2. BIỆT : Hiển riêng tông thú. Lược có 5 lớp :
1. Giáo nghĩa đối nhau : Lấy giáo thuyết làm tông. Dụng, nghĩa, ý làm thú. Như văn sau nói «Khiến bỏ ngôn giữ ý … ».
2. Lý sự đối nhau : Nêu sự làm tông. Hiển lý làm thú. Như văn sau nói : «Từ sinh diệt môn nhập chân như môn … ».
3. Cảnh hạnh đối nhau: Lấy cảnh chân tục làm tông. Quán tâm hạnh làm thú.
4. Chứng tín đối nhau: Lấy thành tựu tín tâm bất thối làm tông. Đăng địa nhập chứng làm thú.
5. Nhân quả đối nhau : Lấy nhân làm tông, thắng quả làm thú.
5 thứ này cũng từ trước khởi sau, tiệm thứ nương nhau. Theo cách giải thích trên thì hiểu.
VII. GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC CỦA LUẬN
Đại, đương thể làm đề mục, bao hàm làm nghĩa.
Thừa, thì ngay nơi thí dụ lấy làm tên, vận tải làm công. Pháp và dụ hợp lại cùng hiển. Đại thừa là cảnh sở tín. Thể năng làm nghĩa. Khởi tín là tâm năng tín, lấy tịnh trong làm tánh. Tâm và cảnh hợp làm đề mục, nên nói Đại thừa khởi tín, là cái khởi tín của Đại thừa. Đó là đối cảnh mà biện tâm, để biết không phải là chứng v.v… Cũng là khởi cái tín của Đại thừa, là đối tông mà phân biệt hạnh hành, để biết chẳng phải là cái tin của Tiểu thừa.
Đại, ở nghĩa là ba đại : Thể, tướng và dụng không lỗi. Thừa, ứng vào dụng là ngay nơi Phật tánh, tam vị thành vận.
Tự tánh trụ Phật tánh là sở thừa.
Dẫn xuất Phật tánh là năng thừa.
Đến khi đắc quả, Phật tánh là chỗ tột cùng để thừa.
Ba nghĩa thể, tướng và dụng chỉ là nhất tâm chuyển. Cho nên vừa thừa vừa đại, thuộc Trì nghiệp thích.
Theo luận Tạp Tập, vì cùng với 7 loại đại tánh tương ưng, nên gọi là ‘đại’ :
1. Cảnh đại tánh : Vì Bồ-tát đạo duyên với trăm ngàn v.v… vô lượng các kinh giáo pháp rộng lớn làm cảnh giới.
2. Hạnh đại tánh : Chánh hành tất cả các hạnh tự lợi và lợi tha rộng lớn.
3. Trí đại tánh : Liễu tri pháp bố-đặc-già-la vô ngã rộng lớn.
4. Tinh tấn đại tánh : Trong 3 đại a-tăng-kì kiếp, phương tiện siêng tu vô lượng hạnh khó làm.
5. Phương tiện thiện xảo đại tánh : Không trụ sinh tử cùng niết bàn.
6. Chứng đắc đại tánh : Được pháp thân Như Lai với vô lượng vô số đại công đức như vô sở úy, bất cộng pháp v.v…
7. Quả đại tánh : Tột cùng bờ mé sinh tử, thị hiện tất cả các thứ như thành tựu bồ-đề v.v… Kiến lập các Phật sự rộng lớn.
Giải thích: 5 loại trước ứng vào nhân. 2 loại sau ứng vào quả. Du-già hiển dương cũng đồng với đây. Luận Trang Nghiêm gọi tánh thứ 6 là Quả đại, là được pháp thân v.v… còn tánh thứ 7 là Sự đại, là thị hiện thành tựu bồ-đề v.v… Các nghĩa còn lại thì đồng với đây.
Cũng có 7 nghĩa giải thích chữ Đại thừa, như Thập Nhị Môn Luận đã nói.
Khởi, là phát khởi. Vì có bản giác nội huân làm nhân, dụng đại huân là thiện hữu và nghe làm duyên, đối với thắng cảnh này phát niềm tin hiếm có, khiến tâm tịnh như thủy thanh châu.
Trong luận Duy Thức, Tín phân biệt có ba :
1/ Tin thật hữu : Đối với các pháp, thâm tín nhẫn trong sự lý chân thật.
2/ Tin hữu đức : Đối với Tam bảo, thâm tín lạc trong tịnh đức.
3/ Tin hữu năng : Đối với tất cả thiện pháp thuộc thế gian và xuất thế gian, thâm tín có nhiều lực có thể đắc, có thể thành mà khởi hy vọng.
Theo Lương Nhiếp Luận, Tín cũng có ba loại :
1/ Tin thật có : Tự tánh trụ Phật tánh.
2/ Tin có thể đắc : Dẫn xuất Phật tánh.
3/ Tin công đức vô cùng : Đắc quả Phật tánh.
4 loại tín tâm của luận này đã có đủ.
Vì sao chỉ nói đến Tín mà không nói các hạnh còn lại? Vì đó là gốc của các hạnh. Vì luận làm là cho người sơ cơ, nên văn sau nói: «Tự tin tánh mình, biết tâm vọng động, tu hạnh xa lìa v.v…». Kinh Hoa Nghiêm nói: «Tín là cội nguồn của đạo, là mẹ của các công đức v.v…». Trong đó, Khởi tín là y cứ vào chỗ tín thành tựu mà nói, là nhập vào Trụ bất thối, khiến cho tín tâm trước thành CĂN chẳng mất.
Luận, là tập hợp các nghị luận. Vì giả lập khách chủ phán minh qua lại, luận lượng chánh lý, nên gọi là luận. Cho nên, gọi là «Đại thừa khởi tín luận».
Bồ-tát Mã Minh tạo thì Mã Minh là tên. Theo các truyện ký, lược có ba cách giải thích :
1/ Khi Bồ-tát này mới sinh, làm cảm động đến loài ngựa. Chúng không ngớt kêu lên bi thiết, nên lấy đó làm tên.
2/ Bồ-tát này khéo vuốt đàn cầm để ban bố pháp âm. Lũ ngựa nghe rồi thảy đều kêu lên bi thiết, nên lấy đó làm tên.
3/ Bồ-tát này khéo thuyết pháp đến nỗi lũ ngựa có thể rơi lệ và kêu bi thiết, bỏ ăn bảy ngày, nhân đó lấy làm tên.
Bồ-tát là, theo các luận giải thích, có ba nghĩa :
1/ Nếu nói đầy đủ thì nên nói là Bồ-đề tát-đỏa. Bồ-đề, đây nói là đại giác, là sở cầu. Tát-đỏa, đây nói là hữu tình, là sở độ. Theo cảnh mà thành tên. Nếu từ tâm mà nói thì chỉ là bi và trí.
2/ Bồ-đề là pháp sở cầu. Tát-đỏa là người năng cầu. Tâm cảnh hợp lại cùng hiển, nhân pháp cùng xưng nên nói Bồ-đề tát-đỏa.
3/ Tát-đỏa, gọi là dũng mãnh, vì có chí có năng, đối với đại bồ-đề dũng mãnh cầu, nên lập tên này.
Tạo, là chế tác.
VIII. THỜI GIAN TẠO LUẬN
Nói về thời gian tạo luận thì các thuyết không đồng. Nay y theo kinh Ma-na lấy đó làm định thuyết: «Sau khi Như Lai diệt độ 600 năm, có 96 các loại ngoại đạo, tà kiến hưng thịnh, hủy diệt Phật pháp. Có một tì-kheo tên là Mã Minh khéo thuyết pháp yếu hàng phục tất cả các loại ngoại đạo. 700 năm sau có một tì-kheo, tên là Long Thọ, khéo thuyết pháp yếu, diệt cờ tà kiến, đốt đuốc chánh pháp». Dùng văn kinh đó làm chỗ quyết định.
IX. NIÊN ĐẠI PHIÊN DỊCH
Tam tạng Chân Đế dịch, Thích Kinh Kỷ nói : «Sa môn Ba-la-mạt-đà, đây gọi là Chân Đế, cũng gọi là Câu-na-đà-ni, đây gọi là Thân Y. Người nước Ưu-thiền-ni, tây Ấn Độ. Tánh hạnh trong sáng, thần sắc nghiêm nghị, phong thái vượt trội, lo lắng tự lìa, các tạng các bộ。群藏廣部罔不措懷藝術異解。偏素諳練 (quần tạng quảng bộ cương bất thố hoài nghệ thuật dị giải, thiên tố đã quen). Du hành qua các nước, tùy cơ lợi kiến.
Vào năm Thái Thanh thứ hai, đời Lương Võ Đế gặp vua ở điện Bảo Vân, Vua sắc lệch dịch kinh cũng vào năm Thái Thanh thứ hai đó. Vào năm Ngật Thừa Thánh thứ ba, nơi chùa Chánh Quán v.v…dịch kinh Kim Cang Minh, Di Lặc Hạ Sinh, luận Đại Thừa Khởi Tin v.v… tất cả là 111 bộ gồm 20 quyển.
Luận này, là vào ngày mùng 10 tháng 9 năm đó, cùng với Kinh Ấp, Anh Hiền, Tuệ Hiển, Trí Khải, Vân Chấn, Tuệ Mân và đại tướng quân Hoàng Việt v.v… phiên dịch nơi chùa Kiến Hưng Hoành Châu. Sa môn Trí Khải chấp bút. Minh Bà Thủ Na v.v… dịch ngữ.
X. THEO VĂN GIẢI THÍCH
Luận này có ba phần : Tự phần, Chánh tông và Lưu thông.
Giải thích thì có ba môn : Luận chủ, luận pháp và lợi sanh.
1. Luận chủ : Có ba.
. Ba bài tụng qui kính thỉnh cầu gia bị ở đầu luận, là chỗ y tựa khởi hạnh của luận chủ.
. Từ «Luận rằng … », là vì người mà tuyên thuyết. Đó là chánh thành tựu hạnh pháp thí của luận chủ.
. Một bài tụng sau cùng, là hồi hướng kết lại phần đã nói, là tùy hạnh mà khởi đại nguyện.
Cho nên có ba phần. Song cũng chỉ là thành tựu hạnh nguyện «quang hiển Phật nhật pháp» thí quần sanh của luận chủ.
2. Luận pháp :
. Phần Nhân Duyên, là nói về cái nhân khiến pháp xuất hiện. Đó là Tự phần.
. Từ phần Lập Nghĩa trở đi, hiển những gì muốn nói. Đó là phần Chánh tông.
. Phần Khuyến Tu Lợi Ích, là tán thán năng lực thù thắng của pháp. Đó là phần lưu thông.
Nhờ ba phần này khiến cho pháp không lỗi, trụ lâu không mất.
3. Lợi sanh : Có ba :
. Phần Nhân Duyên, là vì các căn cơ mà nói pháp.
. Phần Lập Nghĩa trở đi, là trao truyền giải và hạnh.
. Phần Khuyến Tu, là nêu ra lợi ích và khuyên tu để chủng Phật không mất.
Có ba phần như thế mới thành hạnh nhập pháp của chúng sinh.
Ba môn trên, đầu tiên là nói riêng, sau là hợp lại giải thích, cho nên cả năm phần đều là Chánh tông. Vì đều là thứ mà Luận chủ làm ra. Nay chỉ y môn đầu, trước giải thích ba bài tụng trong Tự phần, là nói về phần qui kính biện ý.
Giải thích phần này lược có 5 môn :
1/ Có và không ở các luận.
2/ Ý qui kính.
3/ Uy nghi của năng qui.
4/ Thắng tướng của sở qui.
5/ Giải thích văn.
1/ Có và không ở các luận :
. Có khi qui kính đầy đủ Tam bảo như Trí Luận, Nhiếp Luận v.v…
. Có khi chỉ qui Phật bảo như Địa Trì Luận.
. Có khi nói thẳng không có qui, như Thập Nhị Môn Luận.
Đây đều là ý của tác giả rộng lược tùy nghi. Như bộ luận rộng của Long Thọ thì đã qui y đầy đủ, còn lược thì như Thập Nhị Môn Luận nên không nói riêng.
2/ Ý qui kính :
a. Vì nhớ ân : Nếu không có Phật thuyết, không do đâu pháp xuất hiện. Nếu không có Pháp đó không do đâu sinh hiểu biết. Nếu không có Tăng truyền, ta ắt không nghe được. Do ba ân này, được thành tuệ ngộ. Nay truyền pháp này, lý cần niệm ân chí kính.
b. Vì thỉnh gia hộ : Thời mạt pháp khắc nghiệt, việc truyền hóa không dễ, nếu không thỉnh cầu uy lực của Tam bảo, không do đâu tự thông, nên cần phải chí kính.
c. Để sinh tín tâm : Luận chủ tự thấy mình không đủ sinh tín tâm cho người, có đưa luận mình tạo ra chưa chắc người đã tín thọ, nên cần qui kính Tam bảo, cho thấy có tông thừa, khiến người sinh tín tâm.
d. Kính nghi : Như ngu thần và hiếu tử ở thế gian, phàm làm việc gì, trước phải khải bạch vua và cha. Nay Bồ-tát qui kính ba lớp Tam bảo, hơn cả vua và cha, muốn tạo luận này, là ánh sáng của mặt trời Phật, há chẳng khải bạch?
e. Y thắng : Như Thành Thật Luận nói: «Tam bảo là cảnh giới cát tường» cho thấy sự thù thắng.
g. Vì ích vật : Như Tạp Tâm nói: «Vì khiến chúng sinh phát tâm hướng cầu đến Tam bảo, tin, hiểu, quán sát, cung kính, qui y, cho nên đảnh lễ».
3/ Uy nghi của năng qui : Ba nghiệp không lỗi biểu trưng cho:
Thiên nhãn của Phật thấy thân này lễ lạy.
Thiên nhĩ của Phật nghe được lời tán thán này.
Tha tâm của Phật biết ý quán sát.
Lại, nếu tại nơi có việc ‘Vừa thấy vừa nghe’ thì dùng đầy đủ tam nghiệp mà lễ. Nếu là nơi chỉ có thấy không có nghe thì dùng thân và ý mà lễ. Nếu là nơi chỉ có nghe không có thấy thì dùng ngữ và ý mà lễ. Nếu là nơi chẳng thể thấy nghe, thì chỉ dùng ý nghiệp mà lễ.
Lại, trừ bỏ tam nghiệp lỗi, thành tam nghiệp thiện, biểu thị cái nhân của tam luân, nên y theo đó.
4/ Thắng tướng của sở qui : Là nói nghĩa của Tam bảo. Nói rộng thì như từng chương.
5/ Giải thích văn: Ba bài tụng phân hai : Hai bài đầu nói về việc qui kính Tam bảo. Một bài sau bày tỏ ý qui kính của mình.
Chánh văn:
Qui mạng tận mười phương
Nghiệp tối thắng biết khắp
Thân vô ngại tự tại
Đấng cứu thế đại bi
Với thể tướng thân này
Biển pháp tánh chân như
Kho vô lượng công đức
Bậc như thật tu hành …
Vì muốn khiến chúng sinh
Trừ nghi bỏ tà chấp
Khởi chánh tín Đại thừa
Chủng Phật chẳng đoạn mất
Giải thích :
A. Qui kính Tam bảo :
Qui mạng là, hiển bày thành chí của năng qui.
Tận mười phương … , là nói chỗ được qui kính (sở kính) sâu rộng.
Năng qui : Qui mạng
Qui, là nghĩa hướng về. Mạng, là tánh mạng thân mình. Chỗ trọng của sinh linh không gì bằng đó. Đây để hiểu, Luận chủ đã được niềm tin bất hoại. Lấy hết phần quan trọng của mình là mạng, qui hướng Tam bảo, thỉnh cầu gia bị để làm luận, nên nói qui mạng.
Qui, là nghĩa kính thuận. Mạng, là giáo mệnh của chư Phật. Đây để hiểu, Luận chủ kính phụng giáo mệnh truyền pháp lợi sinh của Như Lai, nên nói qui mạng.
Hỏi : Qui mạng cùng với khể thủ (lạy rập đầu xuống đất) khác gì nhau?
Đáp : Trí Luận nói: «Theo kinh Tiểu thừa, Vua Tì-sa-môn qui mạng Thích Ca mà khể thủ các Phật khác». Luận chủ tất nhiên không thể trước trọng sau khinh. Chỉ vì hàng Tiểu thừa mang ơn thiên về Thích ca, nên mới có việc như thế.
Cũng có thể giải thích : Luận chung, thì đều đầy đủ ba nghiệp. Phân biệt, thì khể thủ thuộc thân, qui mạng là ý. Trong ba nghiệp, ý nghiệp là quan trọng. Như tiên nhân khởi sân khiến người Tam quốc chết v.v...
Sở kính : Có hai : Tận mười phương và Tam bảo.
Tận mười phương, là phần hạn sở kính. Có hai nghĩa :
. Không phải chỉ qui thẳng Tam bảo ở một phương mà muốn kính khắp hết mười phương.
. Trong mười phương không phải chỉ trực qui một hay hai cõi, mà trong mỗi một phương đều khắp hết tất cả phương, tức tất cả Tam bảo ở vô tận thế giới. Vì sao? Vì để hiển Tam bảo trùm khắp, vì tâm cung kính quảng đại, vì khác với Tiểu thừa, vì là tiêu xí của luận, nên tận mười phương.
Tam bảo, có ba : 3 câu đầu nói về Phật bảo. 3 câu kế nói về Pháp bảo. Một câu sau nói về Tăng bảo.
Nghiệp tối thắng biết khắp. Thân vô ngại tự tại. Đấng cứu thế đại bi.
Đây là Phật bảo, dùng 4 môn để giải thích.
1/ Tam nghiệp phân biệt : Tối thắng, là nêu Phật vị. Hơn tiểu nên nói thắng. Vượt nhân vị[13] nên nói tối. Chướng hết, đức viên, quả thành, là cực vị nên nói tối thắng.
Nghiệp, là tổng nêu tam luân nghiệp dụng của chư Phật, là nghiệp tối thắng. Tối thắng tức là nghiệp, thuộc về Trì nghiệp thích và Y chủ thích.
Biết khắp, là ý nghiệp biết khắp thù thắng. Vô ngại, là thân nghiệp thù thắng, Cứu thế đại bi, là ngữ nghiệp thù thắng. Đây là kết đức thuộc người. Người đầy đủ các đức trên, gọi đó là Phật.
2/ Hai lợi phân biệt : Nghiệp tối thắng là tổng nêu. Biết khắp v.v… là biệt hiển công đức tự lợi. Trong đó, trong thì có trí biết khắp, ngoài thì có sắc vô ngại. Kinh Thắng Man nói: «Sắc Như Lai vô tận, Trí tuệ cũng như vậy» là đây.
Cứu thế v.v… là biệt hiển đức lợi tha. Người mà hai lợi viên mãn, gọi đó là Phật.
3/ Tam đức phân biệt : Tối thắng nghiệp, là tổng nêu. Biết khắp, là công đức đại trí của Phật. Thân vô ngại, là công đức đại định của Phật, là y nơi định mà phát thông, hiện sắc vô ngại. Cứu thế đại bi, là công đức đại bi của Phật. Nhiếp Đại Thừa Luận nói ‘Phật thọ dụng thân công đức’ là nói ba thứ này.
4/ Theo văn giải thích : Trong đó, chỉ nói hai thân báo và hóa. Vì pháp thân nhiếp thuộc Pháp bảo. Tối thắng, như đã giải thích. Nghiệp, là nghiệp dụng. Biết khắp có hai :
. Chân trí biến khắp : Là môn chân như với hằng sa công đức v.v…
. Tục trí biến khắp : Là môn tâm sanh diệt duyên khởi sai biệt v.v…
Lý và lượng cùng soi, biết khắp không điên đảo.
Sắc vô ngại, sắc thân vô ngại tự tại của Như Lai có nhiều loại, như phẩm Bất Tư Nghị trong kinh Hoa Nghiêm đã nói. Nay lược nói 4 loại :
. Đại tiểu vô ngại : Mỗi một căn đều trùm khắp pháp giới mà cũng chẳng hoại tánh của các căn, cũng chẳng tạp lẫn với tướng các căn.
. Hỗ dụng vô ngại : Các căn tương tác mà không ngại nhau.
. Lý sự vô ngại : Hiện sắc tiêu nhiên mà không ngại cử thể tánh không. Diệu lý thường trong mà không ngại nghiệp dụng vô phương. Văn sau nói: «Sắc tức là trí, gọi là trí thân …».
. Ứng cơ vô ngại : Thân viên hồi, mười phương đều ứng, nhiều cơ liền cảm. Thân cũng không phân mà trùm khắp, tại đây mà không ngại kia, tại kia mà không ngại đây, ngồi không ngại đi v.v... Cứ theo đó mà suy.
Đấng Cứu thế đại bi, thế là thế gian, có ba loại, đây nói về chúng sinh thế gian, là sở cứu. Cứu là năng cứu, là đại bi của Như Lai. Bi cũng có ba loại là duyên, chúng sinh pháp và vô duyên. Vô duyên bi, trong ba thứ là tối thắng, nên nói là đại bi. Phật tánh luận nói: «Bi, là tạm cứu tế thì chẳng thể là cái cứu chân thật. Đại bi, có thể cứu tế mãi mãi, thường hằng và không xả ly». Đây là kết đức thuộc người. Phần nói về Phật bảo xong.
Với thể tướng thân này, biển pháp tánh chân như, tạng vô lượng công đức, là nói về pháp bảo. Có 4 loại : Giáo, lý, hạnh, quả. Giáo thì cạn mà lý thì sâu. Hạnh thì từng phần, còn quả thì viên mãn. Nay ở đây, chỗ qui về (sở qui) chỉ lấy cái sâu và viên, chỉ qui về lý và quả. Cho nên, ứng vào Phật thân để rõ Pháp bảo, là quả pháp. Hiển thể tướng của thân, là lý pháp.
Ba câu trên phân làm hai :
1/ Tiêu đề : Với, có hai nghĩa.
. Không như nhau : Là hiển Pháp bảo cùng với Phật bảo là hai sự, nên nói ‘với’.
. Tập hợp : Không phải chỉ cung kính Phật bảo mà còn với pháp bảo. VỚI nói đây, hiển Phật bảo cùng với Pháp bảo không phải là một nghĩa.
Thể tướng thân này, là hiển Phật cùng với pháp không lìa nhau, không phải là khác nghĩa. Thể, là thể đại. Tướng, là tướng đại. Vì trong Dụng đại nói đến hai thân Phật thọ dụng và biến hóa, cho nên thể đại và tướng đại tự là pháp thân, nhiếp thuộc Pháp bảo. Vì dụng đại y nơi thể và tướng mà khởi, hội dụng qui bản, nên nói ‘thể tướng thân này’.
2/ Giải thích : Biển pháp tánh chân như, là giải thích thể đại. Kho vô lượng công đức, là giải thích tướng đại. Pháp tánh, là nói chân thể này trùm khắp. Nghĩa là, không phải chỉ cùng với Phật bảo làm thể, còn làm tánh của tất cả pháp. Tức hiển cái nghĩa sâu rộng của chân như trùm khắp nhiễm tịnh, bao gồm cả tình và phi tình. Luận nói: «Trong chúng sinh số, gọi là Phật tánh. Trong phi chúng sinh số, gọi là pháp tánh ».
Chân như, là nói cái nghĩa không biến khác, trùm khắp các thời nhiễm tịnh của pháp tánh. Chân, là thể ấy không có ngụy vọng. Như, là tánh không biến cải. Biển, là ứng vào thí dụ để giải thích cái nghi ‘Chân đã không thay đổi, vì sao lại theo nhiễm tịnh? Đã theo nhiễm tịnh sao lại nói không đổi?’
Giải thích : Như biển, nhân nơi gió mà khởi sóng. Sóng tuy khởi diệt mà tánh ướt không đổi. Tánh không đổi mà không ngại sóng khởi. Sóng tuy vạn động mà không ngại một tánh ướt. Cho nên, động tịnh không có hai pháp. Cứ theo đó mà tư duy.
Cũng là hiển bày chân như đầy đủ công đức như biển. Kinh Hoa Nghiêm nói kệ: «Thí như biển rộng sâu. Châu báu không thể tận. Đều hiển hiện trong đó. Hình loại của chúng sinh. Biển nhân duyên thậm thâm. Công đức bảo vô tận. Trong pháp thân thanh tịnh. Không hình thảy đều hiện». Lại có 10 loại tướng kỳ đặc đều hướng chân như.
Kho vô lượng công đức, là giải thích về tướng đại. Pháp thân Như Lai tạng bao hàm tích chứa vô biên hằng sa tánh công đức, nên nói kho. Ở đó, cũng nhiếp hai pháp giáo và hạnh. Đó là công đức ‘Giáo hàm sở thuyên’ và công đức ‘Hạnh nhiếp sở thành’. Cho nên, gọi là kho vô lượng công đức. Phải biết, trong đó bao gồm cả bốn pháp bảo, có đầy đủ hàm và tạng.
Phần Pháp bảo xong.
Bậc như thật tu hành, là nói về Tăng bảo. Tăng, là chung cho cả phàm và thánh. Thánh, thì có đại và tiểu mà Bồ-tát là hơn. Cho nên, ở đây chỉ qui về tăng là hàng Bồ-tát đăng địa, đã chứng lý khởi hạnh, gọi là như thật tu hành. Văn sau nói: «Y theo pháp lực huân tập là hạnh của hàng đăng địa. Như thật tu hành là hạnh của hàng đăng địa. Đầy đủ phương tiện là giai vị địa mãn».
Ba chấm (…) là nêu cái trước mà giữ cái sau để được đầy đủ. Theo Bảo Tánh Luận, với Bồ-tát đăng địa, ứng vào chánh thể và hậu đắc mà thuyết hai tu hành. Luận đó nói : «Một là như thật tu hành, là liễu tri được nhất vị như lý. Hai là biến tu hành, là biết đầy đủ nhất tâm có hằng sa pháp giới». Nay, với văn đây, nêu chánh thể mà sau có (…) là để giữ cái hậu đắc.[14]
Theo Pháp Tập Kinh, tổng xả vạn hạnh là hai tu hành. Kinh đó nói: «Như thật tu hành, là phát bồ-đề nguyện. Bất phóng dật tu hành, là mãn bồ-đề nguyện. Lại nữa, như thật tu hành là tu hạnh bố thí. Bất phóng dật tu hành là chẳng cầu quả báo v.v …». Trong đó cũng nêu cái đầu và (…) là để giữ cái sau.
Phần qui kính Tam bảo xong.
B. Tỏ ý qui kính của mình :
Đầu các luận khác, đa phần đều hiển hai ý : Về lợi, là tự lợi và lợi tha. Về pháp, là trụ lâu ở đời. Nay, luận này lược hiển ba ý : 1/Vì lợi ích chúng sinh. 2/Vì chủng Phật chẳng đoạn. 3/Vì pháp trụ lâu, là giáo pháp này trụ lâu ở đời, cũng là chủng Phật chẳng đoạn mất. Như luận Kim Cang Bát Nhã của ngài Vô Trước nói: «Vì khéo phó chúc Bát-nhã Ba la mật lưu hành ở thế gian. Vì chủng Phật không đoạn».
4 câu kệ phân làm ba :
1/ Sở vị nhân.
2/ Sở thành ích.
3/ Thành ích ý.
Vì muốn khiến chúng sinh, trừ nghi bỏ tà chấp, khởi chánh tín Đại thừa, chủng Phật chẳng đoạn mất.
1. Sở vị nhân : Chúng sinh sở vị[15] tuy nhiều nhưng không ngoài tam tụ. Theo văn sau, đây chỉ vì chúng sinh bất định tụ. Văn sau nói, vì để chúng sinh chưa nhập chánh định tu hành tín tâm v.v… Cũng là vì hàng tà định, làm nhân duyên lâu xa. Cũng vì hàng chánh định, để họ càng đầy đủ diệu hạnh.
Đã tách riêng sáu vị chúng sinh trong phần Nhân Duyên, đến đó sẽ giải thích.
2. Sở thành ích : Có hai :
. Được lợi ích lìa các lỗi : Là do nghi nên mê chân mà đánh mất cái lạc, do chấp nên khởi vọng mà gieo trồng các khổ. Thập Địa Luận nói: «Ba lớp quán đối với chúng sinh khiến Bồ tát khởi đại từ bi là : Một, xa lìa đệ nhất nghĩa lạc tối thượng. Hai, đầy đủ các khổ. Ba, đối với hai loại điên đảo». Giải thích : Chân lạc vốn có, mất mà chẳng biết. Vọng khổ vốn không, được mà chẳng giác. Vì đối với cái được mất đó đều không giác biết, khiến Bồ-tát sinh bi tâm mà tạo luận. Cho nên, dùng phần Lập Nghĩa và Hiển Thị Chánh Nghĩa ở văn sau giải thích nghĩa căn bản của Như Lai, khiến chúng sinh hiểu đúng đắn không sai lầm. Vì trừ nghi hoặc khiến ngộ cái chân lạc, vì đối trị tà chấp trừ bỏ hai chấp, khiến lìa nhân khổ, văn sau nói: «Xa lìa si mạn, ra khỏi lưới tà», nêntrừ nghi xả tà chấp.
. Được lợi ích thành hạnh :
Hỏi : Đối với chân đã chẳng nghi, đối với tà đã chẳng chấp, chưa biết đối với thừa nào khởi hạnh?
Đáp : Là đối với Đại thừa. Bởi đó là pháp căn bản rốt ráo.
Hỏi : Chưa biết trong Đại thừa này, khởi hạnh gì?
Đáp : Là khởi hạnh tín tâm. Vì tín là gốc của các hạnh. Lật ngược các nghi, nên nói Tín. Đảo đi các tà, nên nói Chánh. Đó là khởi chánh tín Đại thừa. Lấy phần Phân Biệt Phát Thú Đạo Tướng và Tu Hành Tín Tâm thành tự hạnh này.
3. Thành ích ý : Muốn khiến chúng sinh lìa lỗi, thành hạnh, để tín vị thành tựu viên mãn, nhập vị bất thối, có thể thành tựu đương quả, nên nói chủng Phật chẳng đoạn mất. Văn sau nói ‘tín thành tựu phát tâm, rốt ráo chẳng thoái, nhập vào chủng Như Lai, chánh nhân tương ưng v.v…’ là đây.
Giải thích : Do thuyết này, khiến các chúng sinh tu hành Phật nhân thường hằng chẳng dứt, nên nói chẳng đoạn mất. Kinh Hoa Nghiêm nói: «Hạt giống Phật đã gieo vào ruộng chúng sinh sinh mầm chánh giác, cho nên thường khiến Phật bảo chẳng đoạn» là nói chỗ này. Giải thích : Giáo pháp này được lưu truyền, cũng là chẳng đoạn. Đây tương ưng với phần Khuyến Tu Lợi Ích.
Có hai phần : Nêu lợi ích khởi luận thuyết và trình bày thuyết đó.
I. NÊU LỢI ÍCH KHỞI LUẬN THUYẾT
Chánh văn :
Luận rằng : Có pháp có thể khởi tín căn Đại thừa, cho nên phải nói.
Giải thích :
‘Luận rằng’, là lời phân biệt luận khác với kinh.
‘Có pháp có thể khởi tín căn…’là nêu lợi ích, hiển bày nghĩa được nói có thắng dụng.
‘Cho nên phải nói’ là khởi thuyết, hiển bày giáo nghĩa năng thuyên cần phải khởi.
‘Có pháp’, là tổng nêu pháp ‘Pháp nghĩa, một tâm, hai môn, ba đại’, là pháp thể được nói.
‘Có thể khởi tín căn Đại thừa’, là nói về công năng của pháp. Ứng vào môn chân như, là tín lý quyết định. Ứng vào môn sanh diệt, là tín nghiệp dụng chẳng mất. Ứng vào nghĩa đại, là tin Tam bảo không hoại.
‘Tín căn’, là Tín mãn nhập Trụ, thành tựu căn bất thối.
‘Căn’ có hai nghĩa :
. Nghĩa năng trì : là tự phần không lỗi.
. Nghĩa sanh hậu : là thắng tiến thượng cầu.
‘Căn’ và ‘tín’đối nhau thành 4 câu :
. Có tín mà không căn : là theo người mà nói tin.
. Là căn mà không tín : vì còn tuệ căn v.v…
. Vừa có căn vừa có tín : Cái này luận đây nói thấy lý mà thành tựu tín tâm v.v...
. Không tín cũng không căn : là các pháp còn lại.
Luận chủ vì thấy lợi ích này nên cần phải khởi thuyết. Luận này từ trên đến nay là Đại thừa khởi tín, nên cần phải nói luận này. Đề mục y đây mà lập.
II. TRÌNH BÀY LUẬN THUYẾT
Có ba : 1/Nêu số. 2/Liệt kê tên. 3/Nói về tướng.
Chánh văn :
Nói có 5 phần. Thế nào là 5? Nhân duyên, Lập nghĩa, Giải thích, Tu hành tính tâm và Khuyến tu lợi ích.
Giải thích :
Đây là nêu số. Sau là liệt kê tên :
1. Phần Nhân Duyên : Trong phần liệt kê tên có nói «Chẳng tự khởi tất có nguyên do», gọi là ‘Nhân duyên’. Phân minh riêng biệt các đoạn, gọi là ‘phần’.
2. Phần Lập Nghĩa : Hướng đến đã có, kế lược nêu cương yếu, khiến người sinh tín tâm, nên nói LẬP NGHĨA.
3. Phần Giải Thích : Tông yếu đã lược qua, kế nên giải thích rộng để chúng sinh sinh sự hiểu biết, nên nói GIẢI THÍCH.
4. Phần Tu Hành Tín Tâm : Giải thích giúp sinh sự hiểu biết rồi, kế nên y giải đó mà khởi hạnh. Vì có giải mà không hạnh thì chẳng nên, nên có phần TU HÀNH TÍN TÂM.
5. Phần Khuyến Tu Lợi Ích : Tuy đã dạy hạnh nghi, độn căn lại hay giải đãi. Nên kế, nêu lợi ích khuyến tu. Vì thế có phần KHUYẾN TU LỢI ÍCH.
Y nơi sự phân chia trên, nói về tướng của chúng. Giải thích 5 phần thành 5 đoạn.
PHẦN NHÂN DUYÊN
Chánh văn
Hỏi : Do nhân duyên gì mà khởi luận này.
Đáp : Nhân duyên có 8 thứ. Đây là nêu số.
Hỏi : Thế nào lại 8?
Đáp :
1. Tổng tướng nhân duyên. Đó là để chúng sinh lìa tất cả khổ, được cái lạc rốt ráo, chẳng phải cầu sự cung kính và danh lợi ở thế gian.
Giải thích :
Tướng đầu này là tổng. 7 tướng sau là biệt. Vì sao như thế ? Vì tổng kiêm luôn chánh. Còn biệt, là tương ưng với căn cơ. Nên cần phải thế.
LÌA TẤT CẢ KHỔ, là muốn loài hữu tình lìa ba thứ khổ và hai loại tử.
ĐƯỢC CÁI LẠC RỐT RÁO, là được cái lạc của vô thượng bồ-đề đại niết bàn.
CHẲNG PHẢI CẦU SỰ CUNG KÍNH v.v… có hai cách giải thích : Một, chẳng phải muốn chúng sinh cầu danh lợi thế gian. Hai, Luận chủ tự nói : «Ta vì lợi sanh nên tạo luận này, không phải vì danh lợi».
Một môn này, chung hết cho tất cả tâm của Bồ-tát, không chỉ hạn cuộc trong luận này, nên nói TỔNG TƯỚNG. Cũng là nguyên do làm phát khởi chung cho toàn bộ luận này, nên nói TỔNG TƯỞNG NHÂN DUYÊN.
Chánh văn :
2. Vì muốn giải thích nghĩa căn bản của Như Lai, khiến chúng sinh có cái hiểu chân chánh không sai lầm.
Giải thích :
Thuộc biệt, thì biệt phát khởi văn sau. Biệt, là vì đương cơ. Phần này cùng với ‘Hiển thị chánh nghĩa’ và ‘Đối trị tà chấp’ thuộc phần Lập Nghĩa và Giải Thích làm nhân duyên phát khởi. Vì trong phần đó nói: «Y một tâm pháp có hai môn» đều nhiếp tất cả pháp. Đó là căn bản pháp môn mà Như Lai đã nói.
Trong môn sanh diệt, bản giác gọi là NHƯ, thủy giác gọi là LAI, thủy bản không hai, gọi là NHƯ LAI. Chuyển Pháp Luân Luận nói : «Chân đế gọi là như. Chánh giác gọi là lai. Chánh giác chân đế nên gọi là Như Lai». Tức là, chân lý được chứng, gọi là NHƯ. Vô phân biệt trí năng chứng, gọi là LAI. Các chúng sinh khi chưa có vô phân biệt trí thì có như mà không có lai. Nay vì Như Lai y nơi tâm này mà thành, nên gọi tâm này là NGHĨA CĂN BẢN CỦA NHƯ LAI. Giải thích dầy đủ nghĩa này ở văn sau.
Khiến cho các Bồ-tát thuộc Tam hiền và đăng địa có hạnh vị và kiến giải thù thắng tương ưng với tỉ quán, nên nói HIỂU ĐÚNG, là phần Hiển thị chánh nghĩa. Cái thấy đó lìa điên đảo, nên nói CHẲNG SAI LẦM, là phần Đối trị tà chấp.
Chánh văn :
3. Vì muốn khiến chúng sinh căn lành thành thục có thể kham nhậm pháp Đại thừa, chẳng thối mất niềm tin.
Giải thích :
Phần này cùng với phần Phân Biệt Phát Thú Đạo Tướng làm nhân duyên. Vì phần văn đó nói : «Khiến người lợi căn phát tâm quyết định, tiến thú đại đạo, kham nhậm trụ vị bất thối». Đây tương đương với địa vị mãn tâm Thập tín. Tự phần đầy đủ, nên nói THIỆN CĂN THÀNH THỤC. Tiến nhập Thập trụ chánh định tụ, khiến Tín tâm kham nhậm địa vị bất thối.
Chánh văn:
4. Vì khiến chúng sinh căn lành ít ỏi tu tập tín tâm.
Giải thích :
Đây cùng với 4 loại tín tâm và bốn loại tu hành đầu trong phần Tu Hành Tín Tâm làm nhân duyên. Theo phần văn đó thì, khiến kẻ tín tâm chưa đầy đủ tu hành tín tâm để được đầy đủ. Đây tương đương với Thập tín trụ tâm. Vì tín vị chưa mãn, nên nói CĂN LÀNH ÍT ỎI. Khiến tiến tu cho mãn, nên nói TU HÀNH TÍN TÂM.
Chánh văn :
5. Vì chỉ bày phương tiện tiêu trừ các ác nghiệp chướng, khéo giữ tâm mình, xa lìa si mạn, ra khỏi lưới tà.
Giải thích :
Từ đây trở đi là bốn loại căn cơ tương đương với sơ tâm của Tín vị. Vì sao ba hạng trước đều dùng một môn mà nhiếp, đây lại có bốn?[16] Vì ba hạng trước thắng tiến dễ, thối lui khó. Không phải mượn nhiều phương tiện trợ thành đạo lực. Còn đây là hàng căn cơ hạ liệt, thối thì dễ mà tiến lại khó. Cần nương nhiều phương tiện, nên có bốn.
Trong bốn loại, ba loại trước là hạng thượng, trung, hạ. Một loại sách tấn sau, lấy phần đầu trong ba phần của Khuyến Tu cùng với phần tu hành thứ tư trong phần Tu Hành Tín Tâm làm nhân duyên. Vì phần văn đó khiến cho loại chúng sinh nghiệp nặng hoặc nhiều thiện căn khó phát dùng phương tiện lễ sám v.v… tiêu trừ ác nghiệp chướng mà chướng được nhẹ. Trong lìa si mạn ngu dối, ngoài ra khỏi mạng lưới tà ma, nên nói KHÉO GIỮ TÂM MÌNH … Đây tương đương với hạ phẩm.
Chánh văn :
6. Vì chỉ bày tu tập Chỉ Quán, đối trị tâm sai lầm của phàm phu và Nhị thừa.
Giải thích :
Phần này cùng với môn tu hành chỉ quán thứ năm làm nhân duyên. Vì phần văn đó nói rõ Chỉ Quán, đối trị hai cái chấp của phàm và Tiểu, nên nói ĐỐI TRỊ TÂM SAI LẦM. Dưới tự thuyết rộng. Đây tương đương với Trung phẩm.
Chánh văn :
7. Vì chỉ bày phương tiện chuyên niệm, để sanh về trước Phật, nhất định chẳng còn thối mất tín tâm.
Giải thích :
Phần này cùng với phần cuối của Tu Hành Tín Tâm và phần ‘Khuyên sanh tịnh độ của chúng sinh mới học pháp này’ làm nhân duyên. Vì phần văn đó nêu ra phương tiện thù thắng khiến quán giải của hạng đó có phần tương ưng. Chúng sinh nào sợ hậu báo gặp duyên dời đổi, thì khiến vãng sanh để được bất thối. Đây tương đương với thượng phẩm.
Chánh văn :
8. Vì chỉ bày sự lợi ích và khuyên tu hành. Có các nhân duyên như thế nên tạo luận.
Giải thích :
Phần này cùng với phần Khuyến Tu và Lợi Ích làm nhân duyên. Vì văn đó nêu ra cái tổn và lợi, khuyên người tu xả, là sách tấn chung thành các hạnh trước.
Chánh văn :
Hỏi : Trong Tu-da-la có đủ pháp ấy, sao còn lập lại?
Giải thích :
Đây có hai phần : Trước là nêu vấn từ. Sau từ «Nhưng do chúng sinh căn hạnh … » là đọat nghi tình, nói cần tạo luận. Trong đó có hai : Đầu là nêu hai tướng căn duyên để lập tông. Sau, từ «Như Lai khi còn tại thế…» là giải thích riêng căn và duyên.
Chánh văn :
Đáp : Trong Tu-da-la tuy có pháp ấy, nhưng do chúng sinh, căn hạnh chẳng đồng, nhân duyên nhận hiểu có khác.
Giải thích :
Đầu tiên nói, căn có đồng và khác. Sau nói, duyên có tăng và thiểu. Trong phần giải thích riêng cũng có hai : Trước nói công đức đều thù thắng, văn kinh giấy trắng còn không truyền, hà huống cần đến luận. Sau, từ «Sau khi Như Lai diệt độ …» trở đi, nói căn duyên yếu kém cần phải tạo luận.
Chánh văn :
Nghĩa là khi Như Lai còn tại thế, chúng sinh thì căn tánh lanh lợi, người thuyết thì nghiệp của thân tâm thù thắng, viên âm một khi nói ra, mọi loài khác nhau đều cùng nhận hiểu, nên chẳng cần tạo luận.
Giải thích :
Trước, là nói về thời thù thắng để rõ căn thù thắng. Sau, nói về duyên thù thắng. Trong đó, tam nghiệp có thể tự hiểu.
Nhất âm và viên âm có hai :
. Như Lai nhất âm thuyết tất cả pháp, không gì không hiển rõ, nên nói VIÊN ÂM. Kinh Hoa Nghiêm nói : «Như Lai trong một ngữ ngôn, diễn thuyết vô biên khế kinh hải».
. Như Lai đồng tất cả âm, nên nói VIÊN ÂM. Kinh Hoa Nghiêm nói : «Tất cả ngữ ngôn pháp của chúng sinh, một lời diễn thuyết hết không sót». Vì tất cả âm tức là một âm, nên nói nhất âm. Nhất âm tức là tất cả âm, nên nói VIÊN ÂM. Mỗi một ngữ âm trùm khắp hết chúng sinh giới mà âm vận ấy hằng không tạp loạn. Nếu âm vận chẳng trùm khắp thì âm mà không viên. Nếu do đồng khắp mà mất vận khúc, thì viên mà không âm. Nay chẳng hoại vận khúc mà đồng khắp, chẳng động khắp mà khéo vận, đó là viên âm của Như Lai, không phải là cảnh giới của tâm thức suy lường.
Chánh văn :
Nhưng sau khi Như Lai nhập diệt, hoặc có chúng sinh có thể tự dùng nghe nhiều mà nhận hiểu.
Giải thích :
Tự lực nghe nhiều kinh mà hiểu được Phật ý, chẳng cần tạo luận, nên nói TỰ LỰC. Tức đầy đủ hai trì là văn trì và nghĩa trì.
Chánh văn :
Hoặc có chúng sinh cũng do tự lực, nghe ít mà hiểu nhiều.
Giải thích :
Hạng thứ hai này cũng do tự lực tìm văn kinh giản lược mà có thể hiểu ý kinh, nên cũng không cần tạo luận. Đây, có nghĩa trì mà không có văn trì.
Chánh văn :
Hoặc có chúng sinh không tự tâm lực, phải nhờ vào những bộ luận rộng mới nhận hiểu được.
Giải thích :
Hạng này, nếu chỉ y nơi văn kinh thì không thể hiểu ý, phải nhân nơi luận rộng của người mới có thể hiểu được ý kinh, nên nói KHÔNG TỰ TÂM LỰC. Đây là có văn trì mà không có nghĩa trì.
Chánh văn :
Cũng có chúng sinh lại cho việc ‘luận rộng văn nhiều’ là phiền, tâm muốn thâu tóm văn ít mà thu nhiếp nhiều nghĩa, để có thể nhận hiểu.
Giải thích :
Hạng này thì không thích văn nhiều, chỉ y nơi văn mà xét nghĩa phong phú của luận, thâm hiểu ý chỉ mà kinh đã nói, nên nói: «Tâm muốn thâu tóm văn ít mà thu nhiếp nhiều nghĩa». Đây thì không có cả văn trì lẫn nghĩa trì.
Chánh văn :
Luận này là như vậy. Vì muốn tổng nhiếp pháp thâm sâu rộng lớn vô biên nghĩa của Như Lai mà nói luận này.
Giải thích :
«Luận này là như vậy » là văn câu tuy ít nhưng nhiếp hết ý chỉ của tất cả kinh luận Đại thừa, nên nói : «Tổng nhiếp pháp thâm sâu rộng lớn vô biên … ». Như lý trí cảnh, nên nói SÂU. Như lượng trí cảnh, nên nói RỘNG. Sâu rộng không có bờ mé, nên nói VÔ BIÊN.
Trong phần Lập Nghĩa, chánh văn phân làm hai : Đầu, là kết trước sinh sau. Sau, là chánh hiển phần Lập Nghĩa. Chánh văn có ba : Một, nêu tổng để phân biệt. Hai, y vào câu hỏi mà liệt kê tên. Ba, y vào tên mà nói tướng.
PHẦN LẬP NGHĨA
Chánh văn :
Đã nói về phần Nhân Duyên, kế là nói về phần Lập Nghĩa.
Đại thừa, nói tổng quát có hai thứ. Thế nào là hai? Một là pháp, hai là nghĩa.
Giải thích :
. Trong phần tên : PHÁP, là xuất Đại thừa pháp thể, là tự thể, là đối trí, là hiển nghĩa, là pháp tông bản, là đại vị ở nhân, thông cả nhiễm tịnh. NGHĨA, là nói về nghĩa của tên Đại thừa, là nói vì sao tâm này là Đại thừa. Vì trong tâm này có đủ nghĩa của ba đại, nên nói là ĐẠI. Có hai vận chuyển, nên nói là THỪA. Là y nơi tông mà hiển nghĩa lý sai biệt, là đại vị ở quả, chỉ có ở mặt tịnh. Cho nên, ‘Đại thừa, nói tổng quát có hai’ là trước hiển pháp thể, sau giải thích nghĩa lý, nghĩa thâu đầy đủ.
. Trong phần nghĩa : Trước nói về Pháp, sau nói về Nghĩa. Trong phần Pháp cũng có hai : Trước là nêu pháp tổng lập. Kế là khai môn biệt lập. Trong phần tổng, có ba câu :
Chánh văn :
PHÁP, là tâm chúng sinh.
Giải thích :
TÂM CHÚNG SINH, là xuất pháp thể. Đó là tâm Như Lai Tạng, bao gồm hai môn hòa hợp và không hòa hợp. Đây là do tại chúng sinh mà lập tâm đó. Nếu tại Phật địa, thì không có nghĩa hòa hợp, vì thủy giác đồng bản giác, chỉ là chân như, là nghĩa đang được nói đây. Nay, ngay nơi địa vị nhiễm ô của chúng sinh, nên có đầy đủ hai môn.
Chánh văn :
Tâm này nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian.
Giải thích :
NHIẾP TẤT CẢ … là nói đến công năng của pháp. Vì thể và tướng của tâm này vô ngại, nhiễm tịnh đồng y, theo dòng hay ngược dòng chỉ chuyển tâm này. Cho nên, theo nhiễm thành bất giác thì nhiếp pháp thế gian, bản giác bất biến và thủy giác ngược dòng thì nhiếp pháp xuất thế gian. Đây là ứng vào môn sinh diệt mà nói. Nếu ứng vào môn chân như thì dung hợp, hàm nhiếp nhiễm tịnh không khác, nên nhiếp hết. Văn sau sẽ nói đầy đủ.
Chánh văn :
Y nơi tâm này hiển thị nghĩa Đại thừa.
Giải thích :
Đây là giải thích tên Pháp. Là y nơi pháp tông bản nhất tâm nói trên, hiển thị ba nghĩa đại của Đại thừa, nên nói TÂM NÀY, lấy đó làm pháp.
Chánh văn :
Vì sao? Vì tướng chân như của tâm này tức hiển thị cái thể của Đại thừa.
Giải thích :
Phần hỏi có hai ý : Tâm thì thông cả nhiễm tịnh mà Đại thừa thì chỉ có tịnh, vì sao tâm này có thể hiển thị nghĩa Đại thừa? Lại, tâm pháp là đồng, nghĩa Đại thừa thì rộng, vì sao tâm này có thể hiển thị nơi nghĩa?
Giải thích : Đại thừa tuy chỉ có tịnh, nhưng tướng và dụng là do đối với nhiễm mà thành. Nay trong môn sinh diệt đã bao hàm đầy đủ nhiễm tịnh, nên có thể hiển. Vì khi bỏ nhiễm thì không có dụng thanh tịnh. Đây là giải thích ý đầu.
Lại, tâm pháp tuy đồng mà có hai môn. Môn chân như thì hiển cái thể của Đại thừa. Môn sinh diệt thì hiển đầy đủ ba đại. Nghĩa Đại thừa không qua ba đại này. Cho nên, y nơi nhất tâm pháp có thể hiển nghĩa của ba đại.
Nói ‘CHÂN NHƯ của tâm này’ là tổng nêu môn chân như, là phần «Nhất pháp giới…» sau. TƯỚNG, là tướng chân như, là phần «Lại nữa, chân như …» nói sau.
Chánh văn :
Tướng nhân duyên sinh diệt của tâm này hiển thị tự thể, tướng và dụng của Đại thừa.
Giải thích :
‘SINH DIỆT của tâm này’ là theo sự huân tập mà biến động, là tổng nêu môn sinh diệt, là phần «Y Như Lai tạng nên có tâm sinh diệt…» sau.
NHÂN DUYÊN, là muốn nói do duyên gì mà có sinh diệt. Nên mới có phần «Lại nữa, nhân duyên sinh diệt …» sau. TƯỚNG, là hình trạng sinh diệt, là phần «Lại nữa, tướng sinh diệt là…» nói sau.
Vì sao trong môn chân như nói TỨC HIỂN THỊ mà trong môn sinh diệt lại nói HIỂN THỊ?[17] Vì chân như là môn không khởi, cùng với cái thể đại được hiển của nó không có tướng khác. Thuyên chỉ chẳng khác, nên nói TỨC HIỂN THỊ. Vì chẳng khởi, chỉ là hiển thị cái thể. Còn sinh diệt là môn khởi động, nhiễm tịnh đã khác, thuyên chỉ đã phân, năng sở chẳng đồng, nên chẳng nói TỨC.
TỰ THỂ, TƯỚNG VÀ DỤNG là : THỂ, là nghĩa bản giác trong môn sinh diệt, là tự thể của sinh diệt, là cái nhân của sinh diệt, nên trong môn sinh diệt cũng nói đến thể. Tướng tịnh do lật nhiễm và nghiệp dụng tùy nhiễm đều ở trong môn này, nên nói đầy đủ. Vì thế, trong phần giải thích môn sinh diệt, hiển thị đầy đủ nghĩa của ba đại là vì chỗ này.
Vì sao trong môn chân như chỉ nói THỂ mà trong môn sinh diệt lại nói TỰ THỂ, tướng và dụng? Vì nghĩa ba đại (sở hiển thị) lại ở trong môn sinh diệt (năng hiển thị) mà hiển, không phải ngoài, nên nói TỰ.
Hỏi : Chân như là môn ‘không khởi’, chỉ hiển thị nơi thể, vậy sinh diệt là môn ‘khởi’ động, chỉ nên hiển thị nơi tướng và dụng?
Đáp : Chân như là môn ‘không khởi’. ‘Không khởi’ thì cần gì phải y vào ‘khởi’ mà lập. Do không có ‘khởi’ nên chỉ hiển cái thể. Sinh diệt là môn ‘khởi’ động, ‘khởi’ thì phải nương vào cái ‘không khởi’, ‘khởi’ bao hàm cả ‘không khởi’, nên trong ‘khởi’ có đầy đủ cả ba đại. Còn lại đều như sau nói.
Giải thích Pháp xong.
Nghĩa ĐẠI, là phần «Tướng tự thể của chân như …» nói sau. Trong đó có hai. Trước nói về Đại, sau giải thích về Thừa. Trong phần nói về Đại cũng có hai. Trước là nêu, sau là giải thích.
Chánh văn :
NGHĨA thì có ba thứ. Thế nào là ba?
1. THỂ ĐẠI : là chân như bình đẳng, chẳng tăng chẳng giảm của tất cả pháp.
Giải thích :
THỂ, là chân tánh sâu rộng. Phàm, thánh, nhiễm, tịnh đều lấy đó làm chỗ y tựa, nên có tên ĐẠI. Theo dòng thêm nhiễm mà chẳng tăng, ngược dòng trừ nhiễm chẳng giảm. Lại, ngược dòng thêm tịnh chẳng tăng, theo dòng thiếu tịnh chẳng giảm. Do nhiễm tịnh chẳng giảm, đầu cuối chẳng đổi, nên nói ‘BÌNH ĐẲNG chẳng tăng chẳng giảm’.
Chánh văn :
2. TƯỚNG ĐẠI : là Như Lai tạng đầy đủ tánh công đức.
Giải thích :
TƯỚNG ĐẠI, là nghĩa bất không trong hai loại Như Lai tạng, là tướng chẳng khác thể, nên nói TÁNH ĐỨC. Như tám đức của nước chẳng khác nước.
Chánh văn :
3. DỤNG ĐẠI : hay sinh tất cả thiện nhân quả thuộc thế gian và xuất thế gian.
Giải thích :
Dụng đại, là đại dụng tự nhiên của huyễn nghiệp tùy nhiễm, là dụng thô tế của hai thân báo hóa, khiến các chúng sinh trước thì thành tựu thiện nghiệp thế gian, sau thì thành tựu xuất thế gian. Văn sau sẽ nói đến.
Vì sao chỉ nói thiện mà không nói bất thiện? Vì bất thiện pháp nghịch với chân, là thứ phải đối trị, chẳng phải là dụng của nó. Nếu vậy các bất thiện pháp nên lìa khỏi chân? Giải thích : Vì nghịch với chân nên chẳng thể lìa chân. Vì nghịch chân nên chẳng phải dụng của nó.
Chánh văn :
Đây là chỗ nương gốc (bản sở thừa) của chư Phật. Tất cả Bồ tát đều nương (thừa) nơi pháp này mà đến đất Như Lai.
Giải thích :
Trước là bày quả hướng nhân để giải thích nghĩa ‘thừa’. Sau là nêu nhân hướng quả để thành tựu nghĩa ‘vận’. Tức trí thủy giác là năng thừa, lý bản giác là sở thừa. Nhiếp Luận nói : «Thừa đại tánh nên gọi là Đại thừa».
Phần Lập Nghĩa xong.
[1] Thuyên đề : lưới và móng vuốt. Chỉ cho sự nắm bắt và để lại dấu vết. Với các chỗ đó thì tuyệt ngôn tượng.
[2] Chiết : bẻ gãy, phá hủy. Trưng : Trình bày chứng cớ. Ý là : Đối đáp qua lại bằng cách trưng bày chứng cớ để phá đi những định chấp sai lầm.
[3] Pháp Phật để lại.
[4] Ba pháp của người tu : Văn (nghe), tư (tư duy), tu (tu hành).
[5] Sởvi :Chỉcho căn cơ người học.
[6] Tam học : Giới, định, tuệ
[7] (2,-8) đĐộc bộ thiên trúc các nhất nhân nhi dĩ.
[8] Sở chấp tánh không : tánh của Biến kế sở chấplà không. Hai thứ còn lại : Chỉ cho Y tha và Viên thành.
[9] (*) Hán văn trang 3
[10]Phi hữu diệt độ lệnh hữu chung tận. Phi vô chung tận hữu bất diệt độ.
[11] Chủng tánh quyết định là chủng Nhị thừa đã thành tánh.
[12] (4)
[13] Nhân quả.
[14]Đây là nói về hàng Bồ tát đã chứng được Căn bản trí (Chánh thể) và Hậu đắc trí (Hậu đắc).
[15]Chúng sinh sở vị : Mã Minh vì chúng sinh mà làm ra bài luận này. Nên gọi chúng sanh là sở vị, ngài Mã Minh là năng vị (vì)
[16] Bồn là : Tiêu trừ các ác nghiệp, khéo giữ tâm mình v.v…
[17] Phần Hán văn, trước chữ HIỂN THỊ còn có chữ NĂNG. Khi nói NĂNG, nghĩa là đã có SỞ. Có động mới có năng sở. Đây muốn giải thích vì sao ở môn chân như không nói NĂNG HIỂN THỊ, mà qua môn sinh diệt mới nói.