Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Q1

NHÂN DUYÊN THUYẾT KINH NÀY

I. NHÂN DUYÊN THUYẾT KINH NÀY

11/07/2017


HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ
QUYỂN 1
Sa môn Pháp Tạng thuyết
Chân Hiên Tâm việt dịch

I. NHÂN DUYÊN THUYẾT KINH NÀY

 

Trước là nói tổng quát (tổng biện). Sau là nói chi tiết (biệt hiển).

TỔNG BIỆN : Nhân duyên khiến đại giáo xuất hiện thì vô lượng, nên phần đầu của luận Trí Độ nói về nhân duyên ra đời của giáo Bát Nhã như sau: “Như núi Tu di, không phải không có nhân duyên hay nhân duyên ít ỏi mà có thể làm nó dịch chuyển. Phật cũng vậy, vì có đại nhân duyên nên mới có giáo thuyết. Đó là Bát-nhã Ba-la-mật, lưu hành ở đời làm lợi ích khắp quần sinh”. Kinh Pháp Hoa cũng nói: “Như Lai vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện ở đời. Đó là khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật ...”. Phần sau kinh này cũng nói: “Tánh Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác khởi chánh pháp chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao?Vì chẳng phải nhân duyên nhỏ mà Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Vì mười loại vô lượng vô số trăm ngàn a-tăng-kỳ nhân duyên nên Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Thế nào là mười? Một là phát vô lượng bồ-đề tâm chẳng bỏ tất cả chúng sinh v.v…”

BIỆT HIỂN : Lược nêu 10 nghĩa để rõ vô tận. Thế nào là mười? Là pháp nhĩ, nguyện lực, cơ cảm, vi bản, hiển đức, hiển vị, khai phát, kiến văn, thành hạnh, đắc quả.

1. Pháp nhĩ : Pháp nhĩ của tất cả chư Phật đều ở vô tận thế giới, thường chuyển như thế vô tận pháp luân, như pháp nhĩ thường qui định của hàng Đại vương, không ngưng dứt, tận đến mé vị lai. Cho nên, phẩm Bất Tư Nghị nói: “Tất cả thế giới như pháp giới, hư không giới v.v… đều dùng đầu lông biến khắp đo lường. Trong từng niệm, nơi mỗi đầu lông hóa ra các thân nhiều như số Phật độ vi trần không thể nói, không thể nói, cho đến tận mé kiếp vị lai. Mỗi thân của Hóa Phật ấy lại có các đầu nhiều như số Phật độ vi trần không thể nói, không thể nói. Mỗi cái đầu ấy lại có các lưỡi nhiều như số Phật độ vi trần không thể nói, không thể nói. Mỗi cái lưỡi ấy lại xuất hiện các âm thanh nhiều như số Phật độ vi trần không thể nói, không thể nói. Mỗi một âm thanh lại xuất hiện các Khế kinh nhiều như số Phật độ vi trần không thể nói, không thế nói. Trong mỗi Khế kinh lại nói các pháp nhiều như số Phật độ vi trần không thể nói, không thế nói. Trong mỗi pháp lại nói các văn tự cú nghĩa nhiều như số Phật độ vi trần không thể nói, không thế nói. Lại trong các kiếp số nhiều như số Phật độ vi trần không thể nói không thế nói, mà nói các văn tự cú nghĩa sai biệt. Âm thanh đầy khắp pháp giới. Tất cả chúng sinh không ai không nghe. Thường chuyển pháp luân tận đến tất cả kiếp vị lai. Âm thanh của Như Lai không thay đổi, không đoạn dứt cũng không cùng tận”.

Y cứ kinh văn trên thì có thể hiểu : Nơi mỗi đầu lông, trong khoảng một niệm, có thể xuất hiện những nghiệp dụng trên. Trong từng niệm còn lại cũng đều như thế. Như vậy, nơi mỗi đầu lông, trong tất cả niệm, xuất hiện nghiệp dụng vô tận. Nơi những đầu lông còn lại, theo thứ lớp mà đầy khắp tất cả thế giới như hư không giới, pháp giới v.v… mỗi mỗi đều như vậy, vô tận và vô tận. Đây chính là XỨ mà “Đầu lông bao trùm pháp giới”, là THỜI mà “Sát na gom hết kiếp hải”. Nơi XỨ ấy, là để hiểu đốn khởi nghiệp dụng. Nơi THỜI ấy, là để hiểu vẫn thường khởi nghiệp dụng. Đây đều không đợi nhân duyên. Pháp nhĩ của chư Phật, văn kinh sau đều nói như vậy.

Hỏi : Nếu như thế vì sao XỨ chỉ có tám hội, THỜI hạn cuộc trong hai tuần?

Đáp : Phẩm Xá-na có kệ: “Trong từng mỗi hạt bụi / Phật quốc hải an trụ / Phật bủa mây hộ niệm / Trùm che hết tất cả”. Lại có kệ: “Trong mỗi lỗ lông / Vô lượng Phật độ / Trang nghiêm thanh tịnh / An trụ tự nhiên / Phật Lô-xá-na / trong hội chúng hải / Diễn thuyết chánh pháp”. Giải thích: Huống là XỨ, có tám hội mà không nhiếp hết mười phương pháp giới?

Phẩm Phát Tâm nói: “Biết vô lượng kiếp chỉ là nhất niệm. Nhất niệm chính là vô lượng kiếp”. Giải thích : Huống là THỜI có đến hai tuần mà không nhiếp được vô lượng kiếp hải? Phẩm Bất Tư Nghị nói: “Tất cả chư Phật, trong mỗi hạt bụi hiện tất cả Phật độ trong ba đời, trong mỗi hạt bụi hiện thần lực tự tại của chư Phật trong ba đời, trong mỗi hạt bụi hiện tất cả chúng sinh trong ba đời, trong mỗi hạt bụi hiện tất cả Phật sự của chư Phật trong ba đời”. Giải thích: Ba đời bao quát hết kiếp hậu tế và tiền tế đều trong một hạt bụi. Đó là vì pháp nhĩ của chư Phật thường hiện tiền.

2. Nguyện lực : Chính là lực bản nguyện của Như Lai, khiến cho giáo pháp này ứng cơ liền hiện. Cho nên, phẩm Lô-xá-na có kệ: “Trong mười phương quốc độ / Tất cả thế giới hải / Nguyện lực Phật tự tại / Hiện khắp chuyển pháp luân”. Lại có kệ: “Nhờ thần lực Phật Lô-xá-na / Chuyển pháp luân trong tất cả cõi / Do nguyện lực Bồ-tát Phổ Hiền / Âm thanh đầy khắp thế giới hải” thì có thể hiểu, kinh này trùm khắp mười phương. Trong tất cả các thế giới như hư không, pháp giới v.v… cũng như ở các Phật độ trong hạt bụi, đều đồng loạt thuyết kinh này, đều là nguyện lực của đức Bổn sư. Cho nên, trong các hội, phần đầu đều nói đến bản nguyện lực của Phật Lô-xá-na. Lại, phẩm Vân Tập cũng có kệ: “Vô lượng vô số kiếp / Pháp này rất khó gặp / Nếu có ai nghe được / Phải biết lực bản nguyện” thì có thể hiểu, đây là do lực bản nguyện của chư Phật mà chúng sinh được nghe. Cũng tụng rằng: “Như Lai không ra đời / Cũng không có niết bàn / Do lực đại bản nguyện / Mà hiện pháp tự tại”.                                                          

3. Cơ cảm : Như Lai bình đẳng không có biến khác, chỉ tùy ứng cảm với tâm chúng sinh mà hiện thân thuyết pháp. Đây có 3 nghĩa:

1/ Lấy công đức thanh sắc thanh tịnh ở Phật quả làm tăng thượng duyên, ứng với căn khí của người, mà thành nhiếp hóa. Phẩm Vân Tập có kệ: “Có mắt có ánh sáng / Thấy được sắc vi tế / Do thần lực tối thắng / Tịnh tâm thấy chư Phật”. Đây là hiện thân. Còn phẩm Pháp Giới có kệ: “Phật với hạnh quá khứ / được nhất âm vi diệu / Vô tâm với đây kia / Mà hay ứng tất cả”. Đây là thuyết pháp.

2/ Phật quả không có tướng thanh sắc thô, chỉ do nguyện lực tăng thượng của lý trí bình đẳng, cơ cảm tương ưng mà thành có ngôn thuyết hình tướng. Phẩm Vân Tập nói kệ: “Tất cả Phật ba đời / Pháp thân đều thanh tịnh / Tùy ứng cảm giáo hóa / Diệu sắc thân hiện khắp”. Lại nói: “Tất cả chư Như Lai / không có thuyết Phật pháp / Tùy ứng cảm giáo hoá / Mà thành có thuyết pháp”.

3/ Bao gồm cả hai nghĩa trên, CÓ - KHÔNG đều vô ngại. Vì khế hợp với pháp giới không chướng không ngại, nên phẩm Xá-na có kệ: “Phật thân trùm khắp các pháp giới / hiện khắp trước tất cả chúng sinh / Ứng cơ giáo hóa đều đầy đủ / Phật vẫn trụ nơi bồ-đề này / Tất cả Phật độ, bụi v.v… / Nơi ấy Phật tọa mỗi đầu lông / Đều có vô lượng chúng Bồ-tát / Vì họ thuyết đủ hạnh Phổ Hiền”. Giải thích: Đây chính là phần hạn mà kinh đề cập.

4. Vi bản : Nếu muốn theo căn cơ của chúng sinh mà tạm ban loại giáo pháp ngọn ngành thì đầu tiên cũng nên chỉ ra pháp gốc trước, để hiểu sau y nơi cái gốc này mới có cái ngọn kia. Vì thế, đầu tiên thuyết kinh pháp này, sau ở các nơi như vườn Lộc Uyển … mới nói dần về cái ngọn là pháp Tiểu thừa v.v… Phẩm Tánh Khởi nói kệ: “Như mặt trời lên, trước chiếu núi cao …”. Sẽ nói rõ trong phần Lập Giáo dưới.

5. Hiển đức : Vì muốn hiển công đức thù thắng của Phật quả để chư Bồ-tát tin, hướng về và chứng đắc. Đây có hai:

1/ Y quả : Là Liên Hoa tạng trang nghiêm thế giới hải.

2/ Chánh quả : Là thập thân Như Lai thông cả tam thế gian v.v… như văn sau nói.

Hai thứ vô ngại này có bốn câu:

. Trong y quả hiện y quả, như trong hạt bụi hiện Phật độ hải.

. Trong chánh quả hiện chánh quả, như trong lỗ lông hiện Phật v.v…

. Trong chánh quả hiện y quả, như trong lỗ lông hiện Phật độ hải v.v…

. Trong y quả hiện chánh quả, như trong hạt bụi hiện Phật v.v…

Cho nên, chỉ đưa ra một môn thì nhiếp tất cả, không gì là không hết, đều như dưới nói. Vì muốn hiển phần quả đức nói đây, nên nói kinh này.

6. Hiển vị : Vì muốn hiển quá trình tu hành của Bồ-tát từ nhân đến quả có 5 vị. Đây cũng có hai:

1/ Môn thứ lớp tiệm tu : Gồm Thập tín, Thập giải, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, sau mới đến Phật địa. Thứ lớp cứ đi từ vị thấp cao dần lên.        

2/ Môn viên dung tương nhiếp: Trong một vị, nhiếp hết tất cả các vị trước sau. Cho nên, cứ mãn một vị là đều đến Phật địa.

Hai môn vô ngại này được nói rộng ở các hội dưới.

7. Khai phát : Chỉ dạy phổ pháp này là muốn khai phát tánh Như Lai Tạng đầy đủ công đức trong tâm chúng sinh, khiến chư Bồ-tát y đây tu học, phá màng vô minh, tánh đức được hiển bày. Đây cũng có hai:

1/ Dùng ngôn thuyết chỉ dạy để chúng sinh biết mình có tánh Như Lai Tạng.

2/ Dạy chư Bồ-tát tu hành để tánh Như Lai Tạng đó được hiển bày. Như văn sau nói: “Phá tan vi trần thấy được quyển kinh …”.

8. Kiến văn : Pháp môn vô tận tự tại này chỉ là cảnh giới của hàng Bồ-tát ở địa tối cùng. Nhưng vẫn để cho các chúng sinh thuộc các vị dưới được thấy nghe (kiến văn) là muốn thành tựu chủng tử kim cang của họ, không để dứt mất. Cần phải làm cho họ đến được địa vị rốt ráo, như phẩm Tánh Khởi đã nói.

9. Thành hạnh : Chỉ dạy phổ pháp này là để chư Bồ tát thành tựu hạnh Phổ Hiền. Một hạnh tức là tất cả hạnh, lúc mới phát tâm liền thành chánh giác, đầy đủ tuệ thân chẳng do nơi khác mà ngộ. Lại nói: “Bồ tát thọ trì pháp này, dùng ít phương tiện mà chóng được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề ...”. Đây cũng có hai loại:

1/ Thành tựu ngay nhiều hạnh.

2/ Thành tựu tất cả hạnh trong pháp giới (phổ hạnh). Tất cả đều như dưới nói.

10. Đắc quả : Chỉ dạy phổ pháp này là muốn chư Bồ-tát được Đoạn quả và Trí quả ở Phật địa. Cũng có hai:

1/ Đoạn quả : Là trừ chướng. Phẩm Phổ Hiền nói: “Một chướng, tất cả chướng”. Phẩm Tiểu Tướng nói: “Một đoạn, tất cả đoạn”. Sẽ nói rộng ở phần sau.

2/ Trí quả : Là thành tựu công đức. Đầy đủ thập thân biến khắp tam thế gian, nghịch thuận tự tại, y và chánh vô ngại. Như phẩm Bất Tư Nghì v.v… nói.

Trên chỉ bày 10 nghĩa, là muốn hiển nhân duyên khiến giáo kinh này xuất hiện.