Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Q1

HIỂN NGHĨA LÝ PHẦN HẠN

IX. HIỂN NGHĨA LÝ PHẦN HẠN

11/07/2017


HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ
QUYỂN 1
Sa môn Pháp Tạng thuyết
Chân Hiên Tâm việt dịch

IX. HIỂN NGHĨA LÝ PHẦN HẠN

Tuy nói hiển nghĩa lý phần hạn của kinh, nhưng nghĩa của kinh rộng sâu như biển, lời mầu nhiệm mênh mang, thành chỉ nêu sơ 10 môn thu tóm cương yếu của nó.

1. Đồng thời cụ túc tương ưng môn.

2. Quảng hiệp tự tại vô ngại môn.

3. Nhất đa tương dung bất đồng môn.

4. Chư pháp tương tức tự tại môn.

5. Ẩn mật hiển liễu câu thành môn.

6. Vi tế tương dung an lập môn.

7. Nhân Đà La Võng pháp giới môn.

8. Thác sự hiển pháp sanh giải môn.

9. Thập thế cách pháp dị thành môn.

10. Chủ bạn viên minh cụ đức môn.

10 môn này đồng duyên khởi một lần, vô ngại viên dung. Hễ có một môn, liền đủ tất cả môn. Có thể tự suy nghĩ.

1. Đồng thời cụ túc tương ưng môn (Môn đồng thời đầy đủ tương ưng) : Có 10 nghĩa cụ túc : 1/Giáo nghĩa cụ túc. 2/Lý sự cụ túc. 3/Cảnh trí cụ túc. 4/Hạnh vị cụ túc. 5/Nhân quả cụ túc. 6/Y chánh cụ túc. 7/Thể dụng cụ túc. 8/Nhân pháp cụ túc. 9/Nghịch thuận cụ túc. 10/Ứng cảm cụ túc. Nghĩa là, chúng sinh có cơ cảm thì Như Lai sẽ ứng lại. Văn sau nói: “Vì chỗ ưa thích của chúng sinh mà thị hiện mây”.

10 đối này đồng thời tương ưng thành một duyên khởi. Mỗi một nghĩa đủ tất cả nghĩa còn lại. Môn này đã vậy, 9 môn còn lại như Quảng hiệp v.v… mỗi môn đều đủ 10 đối đó. Chỉ tùy môn mà có khác. Cho nên, trong mỗi một môn đều có mười, có trăm, có ngàn v.v… môn. Suy nghĩ thì sẽ thấy.

Nay, trên một pháp SỰ mà biện về 10 đối này. Các môn còn lại, theo đó mà suy.

Trong văn sau :

1/ Biểu tượng cánh liên hoa khiến sinh hiểu biết (giải) là GIÁO, thì thứ được nói đến (sở thuyên) là NGHĨA. Như xứ Liên Hoa của Bồ tát Thắng Âm được nói ở văn sau.

2/ Tướng của hoa là SỰ. Thể của hoa là LÝ. Văn sau có kệ: “Pháp giới không thể hoại, Liên Hoa thế giới hải”.

3/ Hoa là CẢNH sở quán mà cũng chính là TRÍ năng quán. Vì kinh này, có thể dùng nội hạnh làm ngoại sự.

4/ Hoa sự làm HẠNH, kết thành VỊ.

5/ Hoa sự làm NHÂN, tụ thành QUẢ.

6/ Sở Y là đài hoa, cũng nhập CHÁNH, như quốc độ, thân v.v…

7/ THỂ của hoa đồng với chân DỤNG, là ứng cơ.

8/ Toàn thu là NHÂN (), thường hằng là PHÁP.

9/ NGHỊCH thì đồng với ngũ nhiệt. THUẬN thì đồng với Thập độ.

10/ ỨNG với quần cơ cũng là năng CẢM.

Một SƯï là hoa đã vậy, tất cả sự còn lại đều theo đó mà hiểu. Sự - pháp đã vậy, tất cả các môn còn lại như Giáo - nghĩa v.v… cũng vậy. Theo đó suy nghĩ thì có thể biết.

10 đối ở phần Cụ túc đã vậy, mỗi cánh liên hoa đều đủ 10 môn trên cũng như vậy. Vì sao? Vì cánh liên hoa này đủ 10 nghĩa trên, đồng thời, cụ túc, tương ưng, viên mãn.

Đó là môn đầu tiên.      

2. Quảng hiệp tự tại vô ngại môn (Môn rộng hẹp tự tại vô ngại) : Cánh liên hoa kia trùm khắp pháp giới mà không hoại bản vị. Vì phân tức không phân, không phân tức phân, rộng hẹp tự tại, không chướng, không ngại. Văn sau nói: “Đại liên hoa này, cánh nó phủ khắp, tất cả pháp giới …”. Cho nên, hoặc là rộng vô biên. Hoặc là phần hạn rõ ràng. Hoặc vừa rộng vừa hẹp. Hoặc rộng hẹp đều mất. Hoặc đủ cả 4 thứ trên, vì là giải cảnh. Hoặc dứt cả 5 thứ trên, vì là hạnh cảnh. Sau đều y theo đây.

3. Nhất đa tương dung bất đồng môn (Môn một nhiều tương dung không đồng) : Cánh liên hoa này, khi mở ra thì vào khắp tất cả pháp giới, tức nhiếp tất cả vào mình. Mở và nhiếp đồng thời, đã không chướng ngại thì viên dung. Cũng có 4 câu hoặc 6 câu, cứ theo trên mà suy. Văn sau có kệ: “Một Phật độ trùm khắp mười phương, mười phương nhập một cũng không ngoài”.

4. Chư pháp tương tức tự tại môn (Môn các pháp tương tức tự tại) : Một cánh liên hoa này, nếu bỏ mình đồng với tha thể, thì toàn nó là tất cả pháp. Nếu hằng nhiếp tha đồng với mình, thì tất cả pháp kia chính là thể của mình. Một và nhiều tương tức dung nhau không chướng ngại. 6 câu giải, hạnh, cảnh, biệt đều đồng như trên. Văn sau nói :“Biết một tức nhiều, nhiều tức một…”.

5. Ẩn mật hiển liễu câu thành môn (Môn ẩn mật và hiển rõ đồng thành) : Một hoa nhiếp tất cả, thì một hiển nhiều ẩn. Tất cả nhiếp hoa, thì một ẩn nhiều hiển. Hiển hiển không đồng nhau, ẩn ẩn không cùng lúc. Ẩn hiện hiện ẩn đồng thời vô ngại. Toàn và nhiếp đều mất. Còn và mất đều thành. Số câu cũng đồng như trên. Văn sau có kệ: “Đông phương thấy nhập chánh thọ. Tây phương thấy tam-muội khởi …”.

6. Vi tế tương dung an lập môn (Môn an lập tương dung vi tế) : Trong cánh liên hoa này, tất cả các pháp như các cõi nước nhỏ nhiệm v.v… cùng hiện rõ ràng. Văn sau nói: “Trong một hạt bụi, quốc độ nhỏ nhiệm, an trụ tự nhiên”.

7. Nhân-đà-la võng pháp giới môn (Môn pháp giới như lưới Nhân-đà-la) : Cánh hoa trong mỗi một hạt bụi đều đồng hiện vô biên sát hải. Trong sát hải đó lại có các bụi. Trong các bụi đó lại có các sát hải. Cứ vậy mà trùng trùng không thể cùng tận. Không phải là chỗ tâm thức có thể suy lường. Như lưới châu trong suốt của trời Đế Thích hiện ảnh lẫn nhau, ảnh lại hiện ảnh không cùng tận. Như thế giới Nhân-đà-la võng v.v… nói ở văn sau.     

8. Thác sự hiển pháp sinh giải môn (Môn nương sự hiển pháp sinh hiểu biết) : Thấy cánh liên hoa này là thấy đến vô tận pháp giới. Chẳng phải nương đây riêng có sở biểu. Văn sau nói: “Các thứ hoa, lọng v.v… từ vô sinh pháp nhẫn khởi …”.

9. Thập thế cách pháp dị thành môn (Môn mười đời cách pháp riêng thành) : Một liên hoa này biến khắp tất cả xứ, trùm hết tất cả thời. Nghĩa là, ba đời mỗi đời có ba, nhiếp thành nhất niệm, nên thành mười đời. Vì thời không có tự thể, chỉ y nơi hoa mà lập, hoa đã vô ngại thì thời cũng như hoa. Cho nên, văn sau nói: “Quá khứ tất cả kiếp, an vị lai hiện tại. Vị lai tất cả kiếp, an lại thời quá khứ”. Cũng nói: “Vô lượng kiếp tức là nhất niệm. Nhất niệm tức là vô lượng kiếp …”.      

10. Chủ bạn viên minh cụ đức môn (Môn chủ bạn viên minh đầy đủ công đức): Pháp lý Viên giáo không tự khởi, nên quyến thuộc nhất định sinh theo. Văn sau nói: “Hoa này lấy thế giới hải trần số hoa sen làm quyến thuộc”. Cũng như một phương làm chủ, mười phương làm bạn, các phương khác cũng vậy. Cho nên, chủ chủ bạn bạn đều không thấy nhau, chủ bạn bạn chủ viên minh đầy đủ công đức.

Như một SỰ hoa, tự có 10 nghĩa đủ cả 10 môn này, nên thành 100 môn. Các thứ Giáo - nghĩa v.v… còn lại, mỗi thứ cũng y như vậy, nên thành 1000 môn. Như phần Giáo - nghĩa, phân biệt tự loại có 10 nghĩa, cùng với 10 môn Đồng thời cụ túc v.v… thành có 1000 môn. Các môn Đồng thời cụ túc v.v…. kia, phân biệt tự loại có 10 môn, cùng với Giáo - nghĩa v.v… cũng thành 1000 môn. Cứ theo đó suy nghĩ thì thấy.

Hỏi : Nhân duyên gì khiến các pháp có thể viên dung vô ngại như thế?

Đáp : Nhân duyên thì vô lượng, khó có thể nói hết. Chỉ nêu sơ 10 loại để giải thích nghĩa vô ngại này : 1/Duyên khởi tương do. 2/Pháp tánh dung thông. 3/Chỉ do tâm hiện. 4/Như huyễn không thật. 5/Lớn nhỏ bất định. 6/Nhân sinh vô hạn. 7/Quả đức viên cực. 8/Thắng thông tự tại. 9/Đại dụng tam-muội. 10/Giải thoát khó lường.

Môn DUYÊN KHỞI TƯƠNG DO

Pháp hải duyên khởi trong đại pháp giới, nghĩa môn vô lượng. Với tông Viên giáo, chỉ nêu sơ 10 môn để giải thích nghĩa lý đã nói trên. Nghĩa là, các pháp duyên khởi phải đủ 10 nghĩa này mới duyên khởi được, thiếu thì không thành.

1. Các duyên, mỗi duyên mỗi khác : Trong đại duyên khởi, các duyên gặp nhau, thể và dụng của chúng phải khác, không lẫn nhau, mới thành duyên khởi. Nếu không, duyên duyên tạp loạn, duyên gốc biến mất, duyên khởi không thành. Đây là mỗi duyên cần phải giữ lấy cái một của mình.

2. Trợ nhau trùm khắp : Các duyên phải ứng khắp lẫn nhau mới thành duyên khởi. Như một duyên ứng khắp nhiều duyên, mỗi duyên cùng với nhiều duyên hoàn toàn là một. Cái một này đầy đủ nhiều cái một kia. Nếu một duyên không đủ nhiều duyên kia thì trợ ứng không khắp, không thành duyên khởi. Đây là mỗi một duyên đều đủ tất cả duyên.

3. Đồng tồn tại vô ngại : Phàm là một duyên, phải đủ 2 điều kiện trên mới thành duyên khởi. Vì phải trụ nơi cái một của mình mới có thể ứng khắp. Ứng khắp nhiều duyên mới chính là một. Cho nên duy nhất, một và nhiều vô ngại tự tại. Nhờ đó mà dung thông. Có 6 câu : Hoặc toàn thể toàn trụ thì chỉ là một. Hoặc toàn thể ứng khắp, thì nhiều cái một. Hoặc cả hai đều tồn tại. Hoặc cả hai đều mất. Hoặc tổng hợp. Hoặc ly hết. Suy nghĩ thì sẽ thấy.

3 môn trên là nói chung về pháp duyên khởi gốc.

4. Dị môn tương nhập : Lực dụng của các duyên, lúc thì tương y (), lúc thì trì (), lúc thì hiện (), lúc thì đoạt (). Mỗi thứ đều có toàn lực và không toàn lực, duyên khởi mới thành. Như luận nói: “Nhân không sinh, duyên sinh. Duyên không sinh, tự nhân sinh. Nếu mỗi duyên chỉ có lực mà không có vô lực thì có lỗi là nhiều quả, vì từng duyên, mỗi duyên đều sinh. Nếu mỗi duyên chỉ có vô lực, không có hữu lực thì bị cái lỗi không quả, vì đồng với phi duyên, đều không sinh”. Cho nên, là duyên khởi thì cần phải tương y, có đủ hữu lực và vô lực. Nếu thiếu một thì tất cả không thành. Những thứ khác cũng vậy.

Cho nên, MỘT trì NHIỀU, tức MỘT ‘có lực’ nhiếp NHIỀU. NHIỀU y nơi MỘT, tức NHIỀU vô lực và ẩn nơi MỘT. Vì MỘT có lực không được ở cùng với NHIỀU có lực, nên không có MỘT nào mà không nhiếp NHIỀU. Vì NHIỀU vô lực không ở được cùng với MỘT vô lực, nên không có NHIỀU nào mà không nhập MỘT. Như ‘MỘT trì NHIỀU y’ đã vậy, ‘NHIỀU trì MỘT y’ cũng vậy. Nếu ngược lại với trên mà biện, thì không có cái NHIỀU nào không nhiếp MỘT, MỘT không gì là không nhập NHIỀU.

Nếu một duyên gặp nhiều duyên có y, có trì, hữu lực và vô lực thường đủ, thì nhiều duyên ở trong tự duyên, ẩn tự duyên trong nhiều duyên, đồng thời vô ngại. Nhiều duyên gặp một duyên cũng vậy. Hai câu vô ngại ‘Cả hai cùng còn’, ‘Cả hai cùng mất’ cũng theo đó mà hiểu.

5. Dị thể tương tức : Các duyên gặp nhau, toàn THỂ của chúng, hiện () và đoạt đều có hai nghĩa hữu thể và vô thể, duyên khởi mới thành. Vì thiếu một duyên, các duyên còn lại không thành duyên khởi. Duyên khởi không thành thì nghĩa duyên liền hoại. Phải cần một duyên này thì tất cả duyên mới thành duyên khởi. Sở khởi thành thì nghĩa duyên mới lập. Cho nên, một duyên là năng khởi, nhiều duyên cùng với quả đều là sở khởi. Tức, nhiều là từ một mà thành, nên nhiều là vô thể. Một tác động vào nhiều thì một là hữu thể. Do một hữu thể không được ở cùng với nhiều hữu thể, nhiều vô thể không được ở cùng với một vô thể, nên không có cái một mà không có nhiều, không có cái nhiều mà không có một. Một và nhiều đã vậy thì nhiều và một cũng vậy. Ngược lại với trên mà nói.

MỘT duyên gặp NHIỀU duyên có hữu thể và vô thể, nên nhiếp tha đồng với tự, bỏ tự mà đồng với tha, đồng thời vô ngại. Nhiều gặp một cũng vậy. Cứ theo trên mà suy thì thấy. Hai câu vô ngại « Cả hai cùng còn » , « Cả hai cùng mất » cũng theo đó mà hiểu.

6. Thể dụng song dung : Các pháp duyên khởi thì cần phải lực dụng giao nhau, toàn thể dung hợp, mới thành duyên khởi. Cho nên, viên thông cũng có 6 câu:

1/ Do thể không gì không phải là dụng, nên toàn thể là toàn dụng. Nghĩa là, chỉ có tương nhập, không có tương tức.

2/ Do dụng thảy đều là thể, nên chỉ có tương tức, không có tương nhập.

3/ Qui thể thành dụng mà không ngại dụng, toàn dụng là thể mà không mất thể, chính là vô ngại. Cả hai đều còn, vừa tương nhập vừa tương tức, tự tại cùng hiện.     

4/ Toàn dụng là thể, thể mất. Toàn thể là dụng, dụng mất. Không phải tương tức, không phải tương nhập, một vị dung thông.

5/ Hợp 4 câu trên, duyên khởi một lần, vô ngại đồng tồn tại.

6/ Mất cả 5 câu trên, dứt đối đãi, lìa nghĩ nói, đồng với biển tánh.       

7. Đồng thể tương nhập : Một duyên trước đầy đủ nhiều cái một, cùng với một duyên kia, thể không khác, nên nói đồng thể. Lại, do một duyên này ứng với nhiều duyên nên có nhiều cái một này. Nhiều duyên được ứng đã tương tức tương nhập, khiến cho nhiều cái một này cũng tương tức tương nhập.

Đầu tiên nói về tương nhập : Một duyên hữu lực nhiếp TRÌ nhiều cái một. Nhiều cái một vô lực Y nơi một duyên đó. Cho nên, một nhiếp nhiều, nhiều lại nhập một. ‘Một nhập, nhiều nhiếp’ cứ ngược với trên mà luận. Nghĩa và các câu khác theo đó mà hiểu.           

8. Đồng thể tương tức : Nhiều cái một đã có trong một duyên nói trên cũng có nghĩa hữu thể và vô thể, nên cũng tương tức. Vì nhiều cái một vô thể từ một duyên ban đầu mà thành, nên nhiều tức là một. Do một duyên hữu thể ban đầu tác động vào nhiều, khiến cho một nhiếp nhiều. Một hữu thể và nhiều vô thể đã vậy, thì nhiều hữu thể và một vô thể cũng vậy. Nghĩa và các câu khác cũng theo đó mà hiểu.

9. Câu dung vô ngại : Giống như thể và dụng nói trên, cả hai đều viên dung, tương tức, tương nhập, tự tại. Cũng có 6 câu, cứ theo trên thì hiểu.

Ba môn trên đây nói về nghĩa lý trong môn đồng thể thứ hai xong.  

10. Đồng dị viên bị : Vì 9 môn trước hợp thành một đại duyên khởi, khiến cho nhiều loại nghĩa môn ĐỒNG THỜI CỤ TÚC. Do trụ một mà ứng khắp, nên có QUẢNG HIỆP TỰ TẠI VÔ NGẠI. Do tức thể tức dụng nên có TƯƠNG TỨC TƯƠNG NHẬP. Do một nhiếp nhiều thời là hiển, khiến cho một nhập nhiều thành ẩn. Nhiều nhiếp, một nhập cũng vậy. Lại, ngay nơi dụng tương nhập là hiển, khiến cho ngay nơi thể tương tức thành ẩn. Hiển nhập, ẩn cũng vậy. Dị môn tương tức tương nhập là hiển, khiến cho đồng thể thành ẩn. Đồng hiển, dị ẩn cũng vậy.

Lại, do lấy Dị môn nhiếp nghĩa tương nhập trong đồng thể, nên hiện môn VI TẾ TƯƠNG DUNG AN VỊ. Do dị thể tương nhập kéo theo đồng thể tương nhập nên có môn ĐẾ VÕNG trùng trùng vô tận. Do pháp đại duyên khởi này là pháp môn pháp giới vô ngại nên có môn THÁC SỰ HIỂN PHÁP SANH GIẢI. Do cái dung thông tự tại này, nay y trên pháp đó mà biện thời pháp. Cũng theo cái vô ngại tự tại này mà có môn THẬP THẾ CÁCH PHÁP DỊ THÀNH. Do các pháp môn đông một duyên khởi, theo nhau mà khởi, nên bất cứ môn nào cũng đủ tất cả môn, vì thế có môn CHỦ BẠN VIÊN DUNG CỤ ĐỨC.

Môn này dùng để nói về nghĩa lý trong môn thứ ba trước. 

Từ trên tới đây xong 10 nghĩa, đều là môn Duyên khởi tương do. Các môn còn lại như Chỉ Qui đã nói.