Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Q1

GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC KINH

VII. GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC KINH

11/07/2017

HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ
QUYỂN 1
Sa môn Pháp Tạng thuyết
Chân Hiên Tâm việt dịch

VII. GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC KINH

Giải thích sơ 10 danh : 1/Số danh. 2/Pháp danh. 3/Dụ danh. 4/Nghĩa danh. 5/Đức danh. 6/Sự danh. 7/Khai danh. 8/Cụ danh. 9/Hợp danh. 10/Phẩm danh.

1. Số danh (Đặt tên theo số) : Theo Lương Nhiếp Luận q.10, phẩm Thắng Tướng nói: “Kinh Bách Thiên là kinh Hoa Nghiêm, có 10 vạn bài tụng nên gọi là kinh Bách Thiên”. Đây là theo bản số mà đặt tên.

2. Pháp danh (Đặt tên theo pháp) : Theo luận Trí Độ, phẩm Chúc Lụy nói: “Kinh Bất Tư Nghị Giải Thoát có 10 vạn bài kệ, ý chỉ của nó chính là Hoa Nghiêm. Vì pháp mà kinh này nói đều là ‘Một nhiếp tất cả’, đều là bất tư nghị giải thoát, nên lấy đó làm tên”.

3. Dụ danh (Đặt tên theo dụ) : Kinh Niết Bàn và Quán Phật Tam-muội gọi kinh này là kinh Tạp Hoa. Vì do vạn hạnh nghiêm sức lẫn nhau, duyên khởi hợp thành, giống như tạp hoa, nên lấy đó đặt tên.

4. Nghĩa danh (Đặt tên theo nghĩa) : Như ở phẩm Ly Thế Gian, xuất sinh 10 nghĩa như Bồ-tát thâm diệu nghĩa hoa v.v… nên lấy đó đặt tên. (Đến phẩm đó sẽ nói).

5. Đức danh (Đặt tên theo đức) : Như ở phẩm Tánh Khởi, cuối cùng thành tựu 10 thắng đức, nên lấy đó đặt tên kinh. (Đến phẩm đó sẽ nói).

6. Sự danh (Đặt tên theo sự) : Danh xưng Hoa Nghiêm đây, tiếng Phạn nói là Kiện-noa Phiếu-ha. Kiện-noa là Tạp Hoa. Phiếu-ha là nghiêm sức. Tam tạng Nhật Chiếu nói: “Tây quốc có một thứ đồ cúng dường đặc biệt, gọi là phiếu-ha. Nó có sáu tầng, dưới rộng, trên hẹp, được trang sức bằng hoa báu. Trong mỗi tầng đều có tượng Phật. Vì kinh này có sáu vị, vị vị kế tiếp nhau mà thành Phật, đồng với sáu tầng rộng hẹp kia, nên lấy đó đặt tên”. Nhân Thiên trong 8 hội cũng tương tợ với đó, cần nên biết.

7. Khai danh : Nơi một tên mà khai mở thành 10 sự với 5 đối :

7/1. Thông - biệt : Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là tên của toàn bộ kinh. Thế Gian Tịnh Nhãn là tên riêng của phẩm này.

7/2. Giáo - nghĩa : Nơi tên Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh đó, Đại Phương v.v... là nghĩa sở thuyên, Kinh là giáo năng thuyên.

7/3. Pháp - dụ : Trong phần nghĩa nói trên, Đại phương v.v… là pháp. Hoa Nghiêm là dụ.

7/4. Cảnh - trí : (Còn gọi là nhân - pháp). Trong phần pháp nói trên, Đại v.v… là sở chứng, sở giác. Phật là năng chứng, năng giác.

7/5. Giản - trì : Trong phần cảnh nói trên, chữ Đại là năng giản. Phương Quảng là sở giản. Là giản đại khác tiểu, giản thật khác quyền, giản quả khác nhân vậy.

8. Cụ danh (Tên đầy đủ) :

ĐẠI: Có 10 nghĩa.

1/ Cảnh đại : Thập Liên Hoa tạng và tam nghiệp của Thập Phật là y báo và chánh báo vô biên, làm cảnh sở tín, như nói ở hội đầu tiên v.v…

2/ Tâm đại : Y nơi cảnh đại trên mà khởi đại tâm, như nói ở phẩm Hiền Thủ và phẩm Phát Tâm.

3/ Hạnh đại : Y nơi đại tâm trên mà khởi đại hạnh, như nói ở phẩm Ly Thế Gian v.v…

4/ Vị đại : Tích hạnh đại thành vị đại, là ngũ vị viên thông v.v… như nói từ hội II đến hội VI.

5/ Nhân đại : Hạnh vị viên mãn trùm khắp, sinh nhân và liễu nhân đều được cứu cánh, như nói ở phẩm Phổ Hiền.

6/ Quả đại : Tự thể tùy duyên, quả đức viên minh, như nói ở phẩm Bất Tư Nghị v.v…

7/ Thể đại : Đại dụng bình đẳng đều đồng với chân tánh, như nói ở phẩm Tánh Khởi v.v…

8/ Dụng đại : Niệm niệm lợi sinh, chóng thành hạnh vị, như nói ở phẩm Tiểu Tướng v.v…

9/ Giáo đại : Mỗi một danh cú đều khắp tất cả. Như nói ở phần kết thông v.v…

10/ Nghĩa đại : Sở thuyên đều trùm khắp vô biên pháp giới. Như một hạt bụi chứa hết mười phương, một niệm bao đủ chín đời, được nói trong hội VIII v.v…

10 nghĩa trên đây, mỗi nghĩa tổng thu tất cả pháp, không gì không xứng với Đại. Cũng có bảy nghĩa như bảy loại Đại tánh tương ưng v.v… được nói trong Du-già v.v... dùng để giải thích nghĩa Đại. Kinh Niết Bàn dùng ba nghĩa để giải thích như sau : “Đại, gọi là thường”, “Đại, tánh của nó rộng lớn”, “Kiến lập nghĩa Đại, gọi là Đại Niết Bàn”. Luận Đại Thừa Khởi Tín cũng dùng ba nghĩa để giải thích chữ Đại là thể đại, dụng đại và tướng đại.

Kế là giải thích từ ‘phương quảng’.

PHƯƠNG QUẢNG : Có 10 nghĩa

1/ Nghĩa trùm khắp : Ngôn giáo trùm hết các phương xứ nhiều như bụi.

2/ Nghĩa phổ thuyết : Diễn thuyết tất cả pháp cùng khắp pháp giới.

3/ Nghĩa thâm thuyết : Thuyết về pháp giới hải thậm thâm.

4/ Nghĩa nhiếp đủ : Phổ nhiếp vô tận chúng sinh giới.

5/ Nghĩa quảng ích : Muốn làm cho chúng sinh được bồ-đề Phật đại lợi lạc.

6/ Nghĩa trừ sạch : Trừ hết hai chướng và tập khí.

7/ Nghĩa cụ đức : Nhiếp đủ vô biên các thắng đức.

8/ Nghĩa siêu thắng : Độc nhất vô nhị không gì so sánh được.

9/ Nghĩa hàm nhiếp : Nhiếp hết các loại pháp khác nhau.

10/ Nghĩa quảng xuất : Hay xuất sinh đại quả của Phật.

10 nghĩa này là theo 2 luận thuyết :

1. Theo luận Nhập Đại Thừa : 1/Vì chúng sinh thuyết pháp đối trị. 2/Có nhiều thừa. 3/Nhiều phẩm loại trang nghiêm. 4/Hay xuất sinh vô lượng đại quả. 5/Trừ đoạn tất cả các tà kiến. Gọi là Tỳ Phật Lược.

2. Theo luận Tạp Tập : Phương Quảng là “Bồ tát tạng tương ưng với ngôn thuyết gọi là Phương Quảng. Là chỗ nương tựa an lạc và lợi ích cho tất cả hữu tình. Vì diễn thuyết pháp quảng đại thậm thâm. Cũng gọi là ‘Quảng Phá’, vì hay phá rộng tất cả chướng. Cũng gọi là ‘Pháp vô tỉ’ vì không có pháp nào có thể sánh được”.

Kế là giải thích nghĩa Phật.

PHẬT : Có 10 nghĩa. Như Phật vô trước v.v… văn sau sẽ nói đủ.

HOA NGHIÊM

Hỏi : Hoa có mấy nghĩa? Dùng HOA mà trang NGHIÊM là biểu trưng cho việc gì?

Đáp : Hoa có 10 nghĩa. Chỗ biểu trưng cũng như vậy.

1/ Nghĩa vi diệu : Nghĩa hoa này biểu trưng cho hạnh đức của Phật lìa thô tướng, nên nói Hoa mà Nghiêm vậy. Dưới đều theo đây.

2/ Nghĩa khai mở : Biểu trưng cho hạnh bày đủ, tánh khai giác.

3/ Nghĩa đoan chánh : Biểu trưng cho hạnh viên mãn, đức tướng đủ.

4/ Nghĩa thơm phức : Biểu trưng cho hương đức xông khắp làm lợi ích cho mình và người.

5/ Nghĩa vui thích : Biểu trưng cho thắng đức an lạc hoan hỉ không nhàm chán.

6/ Nghĩa khéo thành : Biểu trưng cho đức tướng đã tu khéo được thành tựu.

7/ Nghĩa tịnh sáng : Biểu trưng cho các chướng đã đoạn diệt hẳn, được chỗ thanh tịnh tột cùng.

8/ Nghĩa trang sức : Biểu trưng cho liễu nhân trang nghiêm bản tánh.

9/ Nghĩa dẫn quả : Biểu trưng cho sinh nhân dẫn khởi Phật quả.

10/ Nghĩa vô nhiễm : Biểu trưng việc sống trong đời mà không nhiễm như hoa sen.

KINH : Giải thích chữ kinh cũng có 10 nghĩa như kinh Bảo Vân nói. Nghĩa còn lại đều như trên.

9. Hợp danh : ĐẠI, là lấy ngay thể làm tên, lấy bao hàm làm nghĩa. PHƯƠNG, là lấy ngay dụng làm danh, lấy quỉ phạm làm nghĩa, chính là phương pháp ; Tính lìa tà vạy là phương chính (đoan chính) ; Có khả năng trị trọng chướng là y phương (đơn thuốc) ; Trùm khắp hư không giới là tận hết phương ngung (góc ven). QUẢNG là thể và dụng hợp minh, lấy trùm khắp làm nghĩa. Nghĩa là, tất cả chỗ, tất cả thời, tất cả pháp, tất cả người không gì là không trùm khắp, trùng trùng như lưới châu trời Đế Thích. Trong đó, nếu một nhiếp tất cả gọi là ĐẠI, một trùm tất cả gọi là QUẢNG. Ngược lại (tức QUẢNG trước ĐẠI sau), lý cũng không trái.

PHƯƠNG tức là QUẢNG, ĐẠI tức là PHƯƠNG QUẢNG, đều thuộc Trì nghiệp thích. Đây là pháp sở đắc mà PHẬT là người năng đắc. PHẬT thì lấy giác chiếu làm danh, quả mãn làm nghĩa. Trong đó nhân - pháp, cảnh - trí có tương y (nương nhau) và tương tức (tưc là nhau).

1. Tương y : Trí y cảnh nên Phật của phương quảng khác với Phật ở các thừa dưới. Cảnh y trí nên phương quảng của Phật khác với pháp ở nhân vị. Hai thứ tương y này, mỗi thứ có hữu lực và vô lực, duyên khởi thành tứ cú. Suy nghĩ thì có thể hiểu. Đều thuộc Y chủ thích.

2. Tương tức : PHẬT tức là PHƯƠNG QUẢNG. PHƯƠNG QUẢNG tức là PHẬT. Nhân và pháp vô ngại, toàn thể tương tức. Tứ cú có - không, cứ theo đó mà suy. Đây đều thuộc Trì nghiệp thích.

PHẬT không như ở các thừa dưới, pháp lại siêu vượt nhân vị, nên quả đức khó trình, phải nương vào dụ mới hiển được. Nghĩa là, vạn đức rốt ráo lộng lẫy như HOA, trang sức cho nhau mà hiển tánh, xứng với NGHIÊM. Đây có hai môn:

1. Các đức nghiêm nhau : Cũng có tương y và tương tức. Mỗi thứ đều có tứ cú : Còn, mất, vừa còn vừa mất, không còn không mất. Đều thuộc Trì nghiệp thích. Suy nghĩ thì có thể hiểu.

2. Lý hạnh nghiêm nhau : Cũng có tương y và tương tức. Đầu tiên là tứ cú của tương y.

a. Tương y :

. Lý nhờ tu mà hiển, nên là tánh của hạnh Hoa Nghiêm.

. Hạnh từ lý mà khởi, nên là hạnh của lý Hoa Nghiêm. Lương Nhiếp Luận nói “Không gì không từ pháp thân này lưu xuất, không gì không chứng lại pháp thân này”.

. Lý hạnh dung thông, không hai mà hai. Nếu hạnh không phải từ chân lưu xuất thì không do đâu khế hợp với chân. Nếu hạnh không nghiêm sức chân thì không thể từ chân mà khởi. Thực là do thể dung hạnh mà nhân đầy, hạnh bao quát chân mà quả mãn. Cho nên gọi là Phật Hoa Nghiêm.

. Lý hạnh đều mất, hai mà không hai. Vì là hạnh của lý, nên hạnh mà không phải hạnh. Vì là lý của hạnh nên lý mà không phải lý. Vì thế, năng sở cả hai đều mất, siêu tình, lìa tướng. Không nghiêm mà không gì không nghiêm, chính là Hoa Nghiêm.       

b. Tương tức : Cũng có 4 câu. Lý hạnh toàn thu. Cứ suy nghĩ thì thấy.

Như thế thì biết, pháp và dụ soi nhau mà tồn tại. Còn lại, như trước đã giải thích.

10. Tên phẩm : Thế Gian là pháp. Tịnh Nhãn là dụ.

THẾ GIAN : THẾ là thời. GIAN là trung. Thời trung hiển hiện nên gọi là thế gian. Thế gian không phải một loại, mà có 3 thứ:

. Khí thế gian : Xứ sở y.

. Trí chánh giác thế gian : Chủ hóa độ (năng hóa).

. Chúng sinh thế gian : Những căn cơ được hóa độ (sở hóa).

Phẩm này không ngoài 3 thứ đó, nên lấy đó đặt tên.

. Khí thế gian : Có hai loại là Tràng địa biệt xứ và Hoa tạng thông xứ.

. Trí chánh giác : Cũng có hai là tam thân và thập thân.

. Chúng sinh thế gian : Cũng có hai là Đồng sanh và Dị sanh.

TỊNH NHÃN : Có 3 nghĩa :

. Nghĩa thông suốt. Huống là lý triệt trong khí thế gian. Văn sau nói: “Pháp giới không thể hoại, Hoa Nghiêm Thế Giới Hải”.

. Nghĩa hiện hình. Huống là trí chánh giác. Văn sau nói: “Nơi pháp thân thanh tịnh, không hình nào không hiện”.

. Nghĩa soi thấy. Huống là chúng sinh thế gian. Văn sau nói: “Giống như tịnh nhãn thấy minh châu”.

Nếu luận chung ba thứ thế gian này, thì mỗi thứ đều có ba nghĩa của tịnh nhãn. Cứ theo đó suy nghĩ thì thấy. Cũng để giải thích : Khi Phật chưa ra đời thì không có thiện đạo nên như mù. Khi Như Lai bắt đầu xuất hiện ở thế gian thì tịnh nhãn hiện, nên gọi là thế gian tịnh nhãn. Vì thế, khi Phật niết bàn thì nói con mắt của thế gian diệt.    

PHẨM là loại, là riêng lẻ.

Các nghĩa còn lại có thể tự hiểu.