Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Q1

BỘ LOẠI, TRUYỀN, DỊCH

VIII. BỘ LOẠI, TRUYỀN, DỊCH

11/07/2017


HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ
QUYỂN 1
Sa môn Pháp Tạng thuyết
Chân Hiên Tâm việt dịch

VIII. BỘ LOẠI, TRUYỀN, DỊCH

Cũng có 10 nghĩa : 1/Hằng bản. 2/Đại bản. 3/Thượng bản. 4/Trung bản. 5/Hạ bản. 6/Lược bản. 7/Luận thích. 8/Phiên dịch. 9/Dòng nhánh. 10/Cảm ứng.

1. Hằng bản : Phẩm Bất Tư Nghị nói: “Tất cả thế giới như pháp giới, hư không giới v.v… đều dùng đầu lông biến khắp mà đo lường. Nơi mỗi đầu lông, trong từng niệm, có số thân nhiều như bụi không thể nói, cho đến tận mé kiếp vị lai, thường chuyển pháp luân”, thì có thể hiểu, đây bao gồm tất cả những thứ khác nhau trong thế giới như cây cối, hình tượng v.v… Nơi mỗi lỗ lông, niệm niệm thường thuyết pháp không dứt. Pháp này không thể kiết tập, không thể giới hạn số phẩm kệ tụng nhiều hay ít. Cũng không phải là chỗ mà các hạng vị dưới có thể thọ trì.

2. Đại bản : Như Tì-kheo Hải Vân thọ trì kinh Phổ Nhãn ở phần sau. Lấy bút chất thành núi Tu-di cùng với mực nhiều như nước của tứ đại hải, cũng không thể viết hết một phẩm Khế kinh. Các phẩm như thế còn nhiều hơn số bụi nhỏ. Đây là chỗ thọ trì của các đại Bồ-tát có lực Đà-la-ni, không phải là thứ có thể ghi chép trên bối diệp.

3. Thượng bản : Đây là bản thượng trong văn kiết tập. Tây vực tương truyền : Bồ-tát Long Thọ viếng Long cung thấy kinh Đại Bất Tư Nghị Giải Thoát có ba bản. Bản thượng có số kệ nhiều như bụi trong thập Tam thiên đại thiên thế giới, có số phẩm nhiều như bụi trong Tứ thiên hạ.

4. Trung bản : Có 498.800 bài kệ, 1200 phẩm.

Hai bản này đều cất giữ tại Long cung, không phải là thứ mà lực của người Diêm-phù-đề có thể thọ trì, nên không lưu truyền ở cõi này.

5. Hạ bản : Có 100.000 bài tụng, 38 phẩm. Ngài Long Thọ mang bản này về lưu truyền ở Tây Thiên Trúc, là kinh Bách Thiên với 100.000 bài tụng. Tây vực tương truyền, trong núi nước Vu Điền và Nam-già-câu-bàn đều có bản này.

6. Lược bản : Bản 60 quyển được lưu truyền ở đất này. Trong 100.000 bài tụng đó, 36.000 bài tụng đầu bao gồm những điểm then chốt.

Gần đây, trên tháp chùa Đại Từ Ân, phát hiện bản Hoa Nghiêm bằng tiếng Phạn có ba bộ. Đối chiếu sơ với bản Hán đây thì thấy rất nhiều chỗ tương đồng. Số tụng cũng tương tự.

7. Luận thích : Bồ tát Long Thọ mang hạ bản về, nhân đó tạo ra luận Đại Bất Tư Nghị, cũng có 100.000 bài tụng để giải thích kinh này. Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa hiện nay là một phần của nó.

. Đời Tần, Tam tạng Na-xá dịch các bài tụng thành 16 quyển, vừa đến phần Đệ nhị địa. Còn lại đều chẳng đủ. Bồ-tát Thế Thân làm ra quyển Thập Địa Luận, chú trọng giải thích một phẩm Thập Địa.

. Đời Ngụy, Tam tạng Lặc-na và Bồ-đề Lưu-chi nơi thành Lạc Dương, mỗi người dịch một bản. Luật sư Quang Thống do thông hiểu Phạn văn, làm cho sự đối trái của hai vị Tam tạng hòa hội, hợp thành một bản. Hiện đang lưu truyền ở đây. Bồ-tát Kim Cương Quân và Bồ-tát Kiên Tuệ, mỗi người tạo ra một luận Thập Địa để giải thích, nhưng chưa truyền đến đất này.

. Cũng vào đời Ngụy, cao tăng đất này là pháp sư Linh Biện, nơi Ngũ Đài Sơn, đầu đội kinh Hoa Nghiêm, gối bước ân cần chân rách máu tuôn trải qua ba năm, những chỗ huyền nhiệm càng thêm thông tỏ, mới ở núi Huyền Củng tạo luận giải thích kinh, được hơn 100 quyển, hiện đang lưu truyền ở đời. Sau, pháp sư được sắc thỉnh vào trong điện Thức Càn giảng bộ đại kinh này.

8. Phiên dịch : Sa môn đời Đông Tấn là Chi Pháp Lĩnh, ở nước Vu Điền được 36.000 bài kệ của kinh Hoa Nghiêm, lại thỉnh được Bồ-tát Đại thừa tam quả người Bắc Thiên Trúc là thiền sư Phật-đà-bạt-đà-la, đây gọi là Giác Hiền, họ ngoài đời là Thích-ca, là con cháu của vua Cam Lộ Phạn, từng đến cung trời Đâu Suất theo Di Lặc vấn nghi, khoảng năm Tấn Nghĩa Hi thứ 14 cho đến ngày 10 tháng 3, năm Thuần Hỏa , nơi chùa Tạ Tư Không ở Dương Châu, xây riêng pháp đường Hộ Tịnh để dịch kinh này. Khi ấy trước pháp đường có một đầm sen, mỗi ngày có hai đồng tử áo xanh, từ trong đầm đến pháp đường vẩy nước quét dọn cúng dường. Chiều tối mới trở lại đầm.

Tương truyền rằng : Do kinh này ở tại Long cung đã lâu, Long vương vui mừng thấy kinh được truyền bá lưu thông, nên tự mình cho người đến giúp. Nhân đó sau mới đổi tên chùa thành Hưng Nghiêm Tự. Sa môn Pháp Nghiệp cùng với Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán v.v… theo chấp bút. Lúc đó có nội sử quận Ngô là Mạnh Khải , tướng quân Thạch Vệ cùng với Trữ Thúc Độ v.v… làm đàn việt thí chủ.

Đến ngày 10 tháng 6 năm Nguyên Hi thứ hai thì kinh dịch xong. Đến ngày 20 tháng 12 năm dVĩnh Sơ thứ hai đời Đại Tống, đối chiếu với bản chữ Phạn, sửa chữa lại lần nữa cũng xong. Trong phẩm Pháp Giới, từ sau phẩm Phu Nhân Ma-na đến trước Bồ-tát Di Lặc, văn kinh thiếu mất 72 tờ. Đến tháng 3 năm Vĩnh Long thứ nhất đời Đại Đường đây, có Tam tạng Địa-bà-ha-la người Thiên Trúc, Đường gọi là Nhật Chiếu, có toàn phẩm này bằng tiếng Phạn. Pháp Tạng tôi đích thân cùng coi lại chỗ văn bị thiếu ấy, rồi phụng sắc lệnh, cùng với sa môn Đạo Thành, Phục Lễ v.v… dịch ra, bổ khuyết vào chỗ thiếu đó.                                                    

9. Dòng nhánh : Đại kinh này tùy lực thọ trì mà phân thành nhiều bộ.

. Một quyển kinh Đâu Sa là đầu hội II.

. Một quyển kinh Bồ-tát Bản Nghiệp là toàn phẩm Tịnh Hạnh.

. Một quyển kinh Tiểu Thập Trụ là phẩm Thập Trụ.

. Bốn quyển kinh Đại Thập Trụ, bốn quyển kinh Tiệm Bị Nhất Thiết Trí Đức đều là phẩm Thập Địa.

. Hai quyển kinh Như Lai Tánh Khởi và Vi Mật Tạng là phẩm Tánh Khởi.

. Một quyển kinh Hiển Vô Biên Phật Độ là phẩm Thọ Mệnh.

. Sáu quyển kinh Độ Thế là phẩm Ly Thế Gian.

. Ba quyển kinh La-ma-già là phẩm Nhập Pháp Giới.

Gần đây, tại Thần Đô, cùng với Tam tạng nước Vu Điền dịch 1 quyển Hoa Nghiêm Tu Từ Phần, 1 quyển Bất Tư Nghì Cảnh Giới Phần, 10 quyển Kim Cang Man Phần. Phần phiên dịch này chưa thành thì Tam tạng ấy đã viên tịch.

Hiện nơi Thần Đô, nước Vu Điền dâng bản Hoa Nghiêm gồm 50.000 bài kệ, lại cho cả Tam tạng đến phiên dịch. Bản Phạn ở chùa Từ Ân giống với bản Hán cũ. Còn bản Phạn mới đến thì phẩm hội và văn cú có chút ít không giống. Nói để biết một số bản của đại kinh này. Đây đều là dòng nhánh của đại kinh, tùy căn khí mà phân dòng.

10. Cảm ứng :

. Vua nước Tống thỉnh Tam tạng từ Tây Trúc sang để giảng nói kinh này. Người ấy lo vì tiếng địa phương chưa thông, sợ nói chẳng hết ý chỉ của kinh, mới bèn đạo tràng cầu thỉnh, vừa đúng bảy ngày thì mộng thấy lấy đầu Hán thay vào đầu Phạn của mình. Nhân đó liền hiểu rõ tiếng Tống, giảng giải không ngăn trệ.

. Một Ni ở núi Cửu Lũng kính trọng kinh này, chuyên tâm đọc nó hơn hai mươi năm. Mắt cảm ứng thấy được các cõi hải trong đầu lông.

. Một Ni ở Ngũ Đài Sơn thường tụng kinh này từ xế chiều cho đến mờ sáng thì xong một bộ. Trong miệng phát quang sáng rực khắp hang núi.

. Pháp sư Cự thời Bắc Tề rất sùng kính kinh này, nhưng lại không có thầy để học hỏi, mới chuyên tâm đọc nó để cầu sự thông hiểu. Hơn mười lăm năm liền mộng thấy Thiện Tài trao cho thuốc thông minh. Nhân đó mà khai ngộ, sớ giải kinh 10 quyển, giảng nói hơn 50 lần.

. Thiền sư Tu Đức ở Trung Sơn thuộc Định Châu, khởi lòng thành giữ tâm thanh tịnh sao chép kinh này. Sau mở tráp, thấy ánh sáng chói tỏa đến 120 dặm.

. Hoạn nhân Lưu Khiêm Chi, nơi Ngũ Đài Sơn chuyên đọc kinh này, liền phục hồi được hình dáng của bậc trượng phu.

Các việc tương tự như thế rất nhiều, đã nói đủ trong 5 quyển truyện Hoa Nghiêm.