Căn bản

HIỂU VỀ NGŨ ẤM

Chân hiền tâm

25/03/2017
 


Chúng ta học pháp của Phật, chủ yếu là để trừ tham, sân, si là chính. Chưa kể phần lớn chúng ta đến với Phật pháp là khi trong tâm mình đang có những sự bất ổn… Vì thế, nghe ai giảng vừa đúng tâm trạng của mình, giải quyết được những bất ổn đó thì mình theo đó mà nghe, hầu giải quyết bớt những tồn đọng trong mình. Thành tuy đến với Phật pháp nhưng đa phần chúng ta ít quan tâm đến những khái niệm của Phật học. Vì thế có những vị học pháp đi chùa đã lâu nhưng nghe hỏi đến ngũ ấm là gì, không trả lời được. Vì không nắm rõ được ý nghĩa của nó.

Không trả lời được không có gì để nói. Vấn đề là nếu chúng ta hiểu được các khái niệm  đơn giản này, cũng có cái lợi cho chúng ta trong việc học Phật, nhất là với người tu thiền. Vì thế trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin nêu ra ý nghĩa của một số khái niệm căn bản, với những giải thích mang tính đơn giản để chúng ta dễ vào.

Khái niệm căn bản và gần gũi nhất mà với bất cứ một người học Phật nào cũng cần nắm rõ, là từ ngũ ấm. Ngũ ấm hay ngũ uẩn, đều chỉ cho phần thể xác và tinh thần của một chúng hữu tình.

Khái niệm Ngũ ấm
Ngũ ấm, còn gọi là ngũ uẩn. Ấm, có nghĩa là che đậy. Uẩn có nghĩa là tích tụ nhóm họp. Ngũ ấm, bản thân nó là sự nhóm họp của 5 thứ sắc - thọ - tưởng – hành - thức, cũng là kết quả của những tích tụ chứa trong tạng thức, nên gọi là ngũ uẩn. 5 thứ này che đậy chân tánh minh diệu của mình, nên gọi là ngũ ấm.

Ý nghĩa của ngũ ấm
Ngũ ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Sắc ấm
SẮC, là chỉ cho phần xác thân của mỗi người. Những gì thuộc về thân thể, gọi là sắc. Da thịt, máu huyết, lông tóc v.v… đều thuộc về sắc. Những thứ này gọi chung là TỨ ĐẠI. Tứ đại là đất, nước, gió, lửa.

Những gì có tính chất ngại như da thịt, lông tóc v.v… thì thuộc về đất.

Những gì mang tính ướt như máu, nước v.v… thì thuộc nước.

Những gì mang tính ấm nóng trong thân thể, thuộc về lửa.

Những gì mang tính khí như hơi thở, khí lưu chuyển trong người thì thuộc về gió.

Do đâu mà từ đất, nước, gió, lửa lại biến thành thân tướng với lông, tóc, máu, huyết v.v… khác nhau? Là do NGHIỆP của từng người. Tùy NGHIỆP của mỗi người mà chúng ta có thân tứ đại khác nhau. Không người nào giống người nào. Nếu chúng ta thấy chúng giống nhau, là vì có phần đồng nghiệp trong đó.

Thọ ấm
THỌ, là những gì thuộc về cảm xúc của mình. Được biểu hiện qua ba trạng thái chính. Đó là khổ, lạc và không khổ không lạc. Những thứ này thường được biểu hiện qua những cảm xúc với những mức độ khác nhau như vui, buồn, không vui không buồn hoặc khổ, sướng, không khổ không sướng v.v…

Tưởng ấm
TƯỞNG, là những gì thuộc về suy nghĩ, tưởng tượng, mơ mộng, hồi tưởng v.v… Nó là cái nhân trực tiếp tạo ra những cảm xúc của chúng hữu tình. Vui và buồn thuộc về thọ ấm, nhưng thương và ghét lại thuộc về tưởng ấm.

Hành ấm
HÀNH, nghĩa chính của nó là lưu chuyển, biến dịch. Thứ gì mình thấy có sự biến dịch lưu chuyển trong đó, trong đó có HÀNH. Như vậy, trong SẮC cũng có HÀNH. Trong THỌ cũng có HÀNH, trong TƯỞNG cũng có HÀNH, trong THỨC cũng có HÀNH. HÀNH chi phối tất cả.
Thân xác có sự thay đổi từ nhỏ đến lớn, từ lớn đến già. Như vậy trong SẮC đang có sự biến dịch lưu chuyển, chính là HÀNH.

THỌ cũng có những trạng thái biến dịch. Như từ vui qua buồn v.v… Sự thay đổi biến dịch đó chính là HÀNH.

TƯỞNG, các suy nghĩ của mình cũng có lúc sanh lúc diệt và thay đổi. Đó là hành tướng của HÀNH.

THỨC, là phân biệt. Sự phân biệt này cũng lưu chuyển thay đổi, nên trong THỨC cũng có HÀNH.

HÀNH, có vị giải thích là Ý CHÍ. Với ý nghĩa lưu chuyển và biến dịch, thì giải thích HÀNH là ý chí, thấy có vẻ không dính dáng. Nhưng nếu hiểu HÀNH với ý nghĩa là NGHIỆP, và hiểu mặt nhân duyên của pháp thì chúng ta sẽ thấy mối liên hệ giữa HÀNH với Ý CHÍ. Và sẽ hiểu vì sao có một số vị giải thích HÀNH là Ý CHÍ.

Trong các kinh luận, ngoài việc giải thích HÀNH là sự biến dịch hay lưu chuyển, Phật còn nói BA NGHIỆP (thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp) là HÀNH. Đó là THÂN HÀNH, KHẨU HÀNH và Ý HÀNH. Cũng nói CÁC PHÁP HỮU VI là HÀNH. Vì thế HÀNH còn mang nghĩa là NGHIỆP.

Trong Thâp nhị duyên sanh, đầu tiên là Vô minh duyên hành. Cái hành đó chính là nghiệp.

NGHIỆP, khi được huân tập vào tạng thức sẽ tạo ra một LỰC mà lực này chính là nhân duyên dẫn chúng sinh đầu thai và có cảnh giới kế tiếp khi chết đi. LỰC đó cũng là thứ chi phối và quyết định khá nhiều đối với các hành vi hiện tại của một chúng hữu tình.

Với những gì thuộc về NGHIỆP, nói chính xác là NGHIỆP TẬP, nó có khuynh hướng khiến ta mãi miết theo đó, mà chúng ta gọi là ý chí cho riêng vấn đề đó. Ý chí, là cái ý hướng đến chỗ nào đó. Ý chí chỉ xuất hiện trong một số việc. Những việc đó là những việc mà NGHIỆP ở quá khứ đang làm chủ. Chính cái lực của nghiệp đó khiến chúng ta thấy mình có ý chí với việc đó. Vì thế đối với cái nhìn của một số vị, HÀNH có ý nghĩa là Ý CHÍ. Như vậy, giải thích nghiệp là ý chí thì vẫn đúng nhưng chưa phải là tất cả ý nghĩa của hành.

Việc này cũng cho chúng ta thấy: Nếu chúng chỉ dựa trên ý nghĩa các khái niệm mà giải thích thì khó mà hình dung được hết các ý nghĩa mà một khái niệm đã có. Nhưng nếu chúng ta có thể phân tích nó theo cái nhìn nhân duyên, là quan tâm đến những mối liên hệ mà chúng đã có, thì chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa mà chúng đang mang rộng hơn. Vì thế, có những khái niệm, chúng ta thấy giải thích thế này mới là đúng, còn thế này là sai… thật ra chưa hẳn đã sai. Chỉ là vì chúng ta không hiểu hết các mối tương quan của chúng mà thôi, trong khi chúng lại xuất hiện nhờ vào những mối tương quan đó mà chúng ta không biết.

Thức ấm

Thức ấm, được nói trong các bộ kinh thuộc hệ A-hàm thì chỉ có 6 thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Được nói trong các kinh luận Đại thừa thì có thêm thức thứ tám và thức thứ bảy, là thành 8 thức. Sự sai khác này chỉ do thô tế mà thôi. Kinh A-hàm chỉ mới nêu phần thô. Kinh Đại thừa nêu luôn phần tế.

Tính chất chính của thức là phân biệt. Phân biệt này có thể hiểu theo hai nghĩa là phân biệt một cách hiện lượngphân biệt nương vào trí phân biệt.

PHÂN BIỆT HIỆN LƯỢNG, nghĩa là thức có khả năng nhận rõ mọi thứ trong vị trí của nó không lầm lẫn. Thấy rõ ràng mọi thứ mà không cần dựa vào phần sở tri hay phân biệt của ý thức. Duy thức thường dùng chữ LIỄU BIỆT để chỉ về trạng thái nhận rõ mọi thứ không thông qua trí phân biệt này.
Trong tám thức, thì THỨC THỨ TÁM và TIỀN NGŨ THỨC luôn ở tình trạng hiện lượng. Phân biệt có là do THỨC THỨ BẢY và Ý THỨC.

Chúng ta có thể nhìn các pháp, thấy rõ ràng mọi thứ mà không cần phải khởi niệm cái bàn khác cái ghế v.v… tạm ứng dụng như thế để hiểu về tình trạng hiện lượng này.

Ngay tâm mà xét thì tất cả chúng ta, khi tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài, đều có trạng thái hiện lượng này xuất hiện đầu tiên. Nhưng do chúng ta quen sử dụng ý thức phân biệt, sự lanh lợi của ý thức vốn đã được huân tập nhiều thành thói, nên niệm hiện lượng này không tồn tại được mà nhường chỗ cho các cái thấy phân biệt kế tiếp…

PHÂN BIỆT NƯƠNG VÀO TRÍ PHÂN BIỆT, đa phần chúng ta đều rơi vào tình trạng này mà bỏ qua niệm hiện lượng ban đầu kia. Thấy, nghe, ăn uống v.v… đều khởi tâm phân biệt. Phân biệt này không phải là phân biệt hiện lượng (là nhìn pháp đúng trong bản vị của nó) mà đã có phân sở tri xen vào. Thấy cái bàn, khởi niệm đây là cái bàn. Khi chúng ta khởi niệm đó là cái bàn, chúng ta đã rơi vào phần phân biệt của trí phân biệt. Vì sao? Vì đã nương vào phần sở tri được qui định bởi thế gian mà thấy cái bàn. Chúng ta có thể nhận rõ mọi thứ nhưng không cần phải qui định cho nó là cái bàn v.v…

Nghe một bài nhạc, liền thấy hay hoặc dỡ. Khi thấy hay hoặc dỡ, là chúng ta đã vận dụng phần sở tri mình đã huân tập trước đây để so sánh. Nếu chúng ta không có phần sở tri này thì không nương đâu có phân biệt.

Nhìn nhành hoa màu tím mà khởi tâm ưa thích, vì tâm mình đang tương ưng với một điều gì đó có liên quan đến màu tím đó... 

Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật gọi những tình trạng phân biệt trên là: “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn”. Chúng ta có thể hiểu câu này theo hai cách:

. Thấy biết mà lập thấy biết là gốc của vô minh.

. Thấy biết mà lập thấy biết thì vô minh chính là nền tảng.

Thấy mà lập, tức thấy mà để cho cái lực của phần sở tri chướng chi phối, đó là vô minh. Chính vì vô minh làm gốc nên mới có sự việc như thế xảy ra.

Tu thiền mà tu thẳng tắt trực tiếp nhất, chính là phá thẳng vào phần phân biệt này. Tức là phá thẳng vào phần thức ấm này. Nói rõ nữa là phá vào phần ý thức phân biệt. Gọi là phá từ trong phá ra.

Tóm lại, hiểu biết rõ về ngũ ấm cũng là hiểu biết rõ những hoạt động tâm thức của mình. Cũng góp phần không ít trong việc tu hành của một hành giả tu thiền.