Luận Đại thừa khởi tín

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.8)

Phần Giải thích - Hiển thị chánh nghĩa - Nhân duyên sinh diệt.

01/04/2017


ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
Bồ-tát Mã Minh tạo luận
Quyển 1
Chân Hiền Tâm dịch và giải

III. PHẦN GIẢI THÍCH
Hiển thị Chánh nghĩa – Nhân duyên sanh diệt

Lại nữa, NHÂN DUYÊN SANH DIỆT là, chúng sanh nương tâm ý, ý thức mà chuyển. Nghĩa ấy thế nào? Vì y nơi thức Alaida nói có vô minh, bất giác mà khởi hay thấy, hay hiện, hay thủ cảnh giới, khởi niệm tương tục nên nói là ý. Ý này có 5 tên.

LẠI NỮA, là còn chuyện để nói tiếp. Đây muốn hiển bày NHÂN DUYÊN tạo ra sanh diệt. TÂM mà đi liền với Ý và Ý THỨC là chỉ cho thức tâm. 3 thứ đó họp lại mà sanh thì xuất hiện loài hữu tình tùy tịnh nhiễm mà có sai biệt, nên gọi loài hữu tình ấy là CHÚNG SANH. Có 3 thứ đó mới có chúng sanh lưu chuyển trong 5 đường, nên nói “Nương tâm, ý, ý thức mà chuyển”. CHUYỂN, là sanh khởi, lưu chuyển.

Vậy tâm, ý, ý thức chính là nhân duyên của sanh diệt. Căn cứ theo Ý NÀY CÓ 5 TÊN thì phải có phần Ý này thức Alaida mới xuất hiện, vậy TÂM nói đây là chỉ cho Như Lai Tạng. Không có phần tâm thể này thì ý và ý thức không nương đâu sanh khởi được, nên đây nêu nhân duyên của sanh diệt gồm đủ tâm, ý và ý thức.

NHÂN DUYÊN sanh diệt này có 2 : Đầu tiên là Ý nương TÂM mà khởi, thứ hai là nương nơi Ý ấy mà Ý THỨC sanh khởi. NGHĨA ẤY THẾ NÀO là để làm rõ quá trình chúng sanh nương tâm, ý, ý thức chuyển ra sao. Do bất giác nên tâm thành thức mà có tên là Alaida, vì vậy nói “Y NƠI THỨC Alaida nói có vô minh”. CÓ VÔ MINH là muốn nhấn mạnh đến phần bất giác trong Alaida.

BẤT GIÁC MÀ KHỞI, là do vô minh mà tâm thể vọng động, chỉ cho phần Nghiệp Thức. HAY THẤY, là tâm thể vọng động rồi chuyển thành tướng Năng Kiến trên, gọi là chuyển thức. HAY HIỆN, là tâm thể ấy giờ thành cái hay hiện, chỉ cho Hiện Thức. THỦ LẤY CẢNH GIỚI, là thủ lấy cảnh mà Hiện Thức hiện ra, chỉ cho Trí Thức. Nói THỦ mà chỉ cho TRÍ THỨC, vì do phân biệt mới có cái thủ này. Cái phân biệt ấy chính là Trí Thức. Sanh phân biệt rồi KHỞI NIỆM TƯƠNG TỤC, gọi là Tương Tục Thức. 5 phần này là nền tảng để ý thức y đó mà khởi, nên luận gọi 5 thức này là Ý. Sau là liệt kê và nói rõ về hành tướng của mỗi thức.

Trên, từ bất giác phân thành 9 tướng, nhân quả trước sau rõ ràng. Đây gom thành 2 phần là ý và ý thức.

Thế nào là 5?

Hỏi là để liệt kê 5 tên thuộc Ý.

1. NGHIỆP THỨC : Lực vô minh bất giác tâm động.

ĐỘNG là nghĩa của nghiệp. Vì thế gọi phần tâm động khi chưa phân năng - sở này là Nghiệp thức. Nó là nền tảng đầu tiên để có tâm thức.

2. CHUYỂN THỨC : Y nơi tâm động mà thấy tướng.

TÂM ĐỘNG là chỉ cho Nghiệp Thức trên. Vì động mà có chuyển. CHUYỂN là chỉ cho sự thay đổi chuyển biến so với trạng thái cũ. CHUYỂN THỨC là chỉ cho trạng thái tâm không còn tĩnh lặng mà đã có sự sanh diệt. Chuyển thức có 2 : Một là do vô minh làm động khiến chân tánh chuyển thành cái năng thấy, chỉ cho tướng Năng Kiến trước. Hai làø phần chuyển thức thuộc 6 thức là ý thức, nhãn thức v.v… là do bị ngoại cảnh làm động mà chuyển thành hay thấy. Phần CHUYỂN THỨC nói đây chỉ cho Năng Kiến Tướng, và do tính chất CHUYỂN này làm nền tảng mà khi đủ duyên 6 thức cũng chuyển. Chuyển thức trong Lăng Già chỉ cho cả 7 thức.

3. HIỆN THỨC : Hay hiện tất cả cảnh giới. Như gương sáng hiện các sắc tượng, hiện thức cũng như vậy. Tùy 5 trần nào ứng đến được thì liền hiện không có trước sau. Vì tất cả thời nhậm vận mà khởi, thường hiện tiền.

Hiện thức tức là thức Alaida. Alaida là chỗ chấp trì chủng tử của các pháp mà cũng là chỗ biến hiện ra các pháp. Chỉ nhấn mạnh về mặt biến hiện nên nói là hiện thức. Kinh Lăng Già nói: “Cái huân và biến chẳng thể nghĩ bàn là nhân của hiện thức”. HUÂN là chân như không tánh niệm niệm bất giác huân thành vô minh. BIẾN là 3 tế đồng thời biến hiện. Cái BIẾN này là nhân để có hiện thức mà cũng là thứ đặt trưng biểu hiện cho khả năng HAY HIỆN của hiện thức, nên nói “HAY HIỆN tất cả cảnh giới”.

“NHƯ GƯƠNG SÁNG hiện các sắc tượng” là hình ảnh để ta hình dung về hiện thức. Sắc tượng nào nằm trong phạm vi của gương thì đồng thời hiện không có trước sau, nên nói “ỨNG ĐẾN ĐƯỢC thì liền hiện không có trước sau”. Đây là do thế lực của chủng tử trong Alaida đã thành thục mà nó biến hiện ra tướng khí thế gian là 4 đại và 5 TRẦN sắc, thanh, hương, vị, xúc. ỨNG ĐẾN ĐƯỢC là chỉ cho việc thành thục, đủ nhân đủ duyên đó. KHÔNG CÓ TRƯỚC SAU vì một khi đủ duyên để khởi thì đồng khởi như gương hiện hình tượng.

Đây nói lên chức năng của thức Alaida : Chỉ nhận thức hay phản ánh các sự vật xuất hiện trong nó như một tấm gương phản chiếu mọi hình tượng. Chỉ là sự nhận thức đơn thuần, không có sự chia chẽ, suy tư, tính toán, so đo. Theo hệ thống 8 thức, suy tư, tính toán, so đo thuộc 7 chuyển thức.

Alaida không phải lúc có lúc không như ý thức mà từ vô thủy đến nay, nó sanh diệt tương tục thường hằng không gián đoạn, đủ duyên liền hiện nên nói “TẤT CẢ thời nhậm vận mà khởi, thường hiện tiền”.

4. TRÍ THỨC : Phân biệt pháp nhiễm tịnh.

Phân biệt là đặt trưng của thức. Phân biệt là nền tảng để ý thức nương đó so đo vạn pháp rồi tạo nghiệp.

5. TƯƠNG TỤC THỨC : Vì niệm tương ưng chẳng dứt. Trụ trì nghiệp thiện ác trong vô lượng đời quá khứ khiến chẳng mất. Lại hay thành thục quả báo khổ, vui… trong hiện tại và vị lai không hề sai lệch. Hay khiến hiện tại, bỗng nhiên nhớ lại các việc đã qua, bất giác lo nghĩ vọng tưởng các việc chưa đến.

NIỆM TƯƠNG ƯNG CHẲNG DỨT là hiển bày nghĩa của 2 chữ TƯƠNG TỤC : Niệm này nối tiếp niệm kia sanh diệt không dứt. Còn “TRỤ TRÌ niệm thiện ác …” trở đi là nói về công năng của thức tương tục.

TRỤ TRÌ là duy trì gìn giữ. “TRỤ TRÌ NGHIỆP thiện ác trong vô lượng đời quá khứ khiến chẳng mất. LẠI HAY thành thục quả báo khổ, vui … trong hiện tại và vị lai không hề sai lệch” là cái tương tục thuộc công năng của Alaida, còn “HAY KHIẾN hiện tại bỗng dưng nhớ việc đã qua, bất giác lo nghĩ vọng tưởng những việc chưa đến” thuộc về ý thức.

Cho nên tam giới hư ngụy chỉ do tâm tạo. Lìa tâm thì không có cảnh giới 6 trần.

TAM GIỚI là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. HƯ NGỤY vì nó không có thật thể, chỉ do bất giác tâm động mà có năng kiến, sở kiến nên nói CHỈ DO TÂM TẠO.

DỤC GIỚI là sở kiến của loại hữu tình có 2 thứ dục là ái dục và thực dục. SẮC GIỚI là sở kiến của người đạt được 4 thiền. VÔ SẮC GIỚI là sở kiến của người tu 4 không định là không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cõi này không có thân thể, vật chất, chỉ còn tam thức trụ thiền định thâm diệu, nên gọi là vô sắc.

Tùy theo mức độ thanh tịnh hay ô nhiễm của tâm mà có căn thân và thế giới khác nhau nên nói CHỈ DO TÂM TẠO.

6 TRẦN là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. LÌA TÂM có thể hiểu theo 2 nghĩa:

1. Lìa Như Lai Tạng. Là muốn hiển bày 6 trần không có tự thể của riêng nó mà lấy Như Lai Tạng làm thể, nên nói “LÌA TÂM thì không có cảnh giới 6 trần”.

2. Lìa thức Alaida, tức không có cái bất giác đầu tiên để Nghiệp Tướng xuất hiện thì không có tướng thứ hai, thứ ba để có 6 trần, nên nói “LÌA TÂM thì không có cảnh giới 6 trần”.

Nghĩa ấy thế nào? Vì tất cả pháp đều từ tâm khởi vọng niệm mà sanh. Tất cả phân biệt tức phân biệt tự tâm. Tâm chẳng thấy tâm, không tướng có thể được. Phải biết, tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương nơi vọng tâm vô minh của chúng sanh mà được tồn tại. Cho nên, tất cả pháp như bóng trong gương, không có cái thể để nắm bắt, duy tâm hư vọng. Vì tâm sanh thì mọi thứ pháp sanh, tâm diệt thì mọi thứ pháp diệt.

NGHĨA NÀY THẾ NÀO là để giải thích vì sao nói “Tam giới hư ngụy chỉ do tâm tạo”. Vì tất cả pháp đều từ vọng niệm mà có, đều là sở hiện của tự tâm theo 2 thế lực nhân duyên và phân biệt. Đã giải thích ở phần Tâm Chân Như.

PHÂN BIỆT đây, tế thì chỉ cho Trí tướng, thô thì chỉ cho Kế danh tự tướng. Vì vạn pháp không ngoài tâm mà có nên nói “PHÂN BIỆT tức phân biệt tự tâm”. Song tâm chẳng thể phân biệt chính tâm, như mắt chẳng thể thấy chính nó. Muốn thấy mắt, phải nhờ gương. Vậy con mắt thấy được đó chỉ là bóng của con mắt thật. Pháp mình thấy được cũng như con mắt trong gương kia, tuy là tự tâm nhưng chỉ là bóng dáng của tự tâm, nên nói TÂM CHẲNG THẤY TÂM. Là bóng thì không có thật thể, nên nói “KHÔNG TƯỚNG có thể được”.

“PHẢI BIẾT tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương nơi vọng tâm vô minh của chúng sanh mà được tồn tại” là hiển bày vạn pháp do đâu mà có, do đâu mà tồn tại. “CHO NÊN tất cả pháp như bóng trong gương, không có cái thể có thể nắm bắt” là kết luận rút được từ cái PHẢI BIẾT ấy. THỂ, là chỉ cho tự tánh của vạn pháp. Vạn pháp không tánh nên nói KHÔNG THỂ NẮM BẮT.

VÌ, là để hiểu vì sao nói DUY TÂM HƯ VỌNG. Tâm bất giác động niệm nên nói TÂM SANH. Do động niệm mà Cảnh giới tướng xuất hiện, vạn pháp từ đó mà lưu xuất, nên nói MỌI THỨ PHÁP SANH. Giác được niệm tối sơ làm tâm biến động, gọi là TÂM DIỆT. Niệm tối sơ đã giác thì Năng Kiến không. Không Năng Kiến thì không Cảnh Giới Tướng nên nói MỌI THỨ PHÁP DIỆT. Tâm là chỗ y chỉ qui nguyên của vạn pháp nên nói DUY TÂM. Không có tự thể, sanh diệt tùy duyên nên nói HƯ VỌNG.

Lại nữa, ý thức tức là tương tục thức. Do phàm phu dính mắc xoay vần sâu trong ngã và ngã sở, mỗi mỗi vọng chấp, theo sự phan duyên, phân biệt 6 trần, gọi là ý thức, cũng gọi là phân ly thức, cũng gọi là phân biệt sự thức. Thức ấy nương nơi phiền não kiến và ái mà tăng trưởng.

Đây là nói về ý thức. TỨC, là ngay đó mà không hẳn là đó. Ý thức thuộc thức tương tục nhưng không phải là toàn bộ thức tương tục ấy, nên nói là TỨC.

THỨC này lấy Ý làm chỗ nương (sở y) để sanh khởi nên gọi là Ý THỨC. Gọi là PHÂN LY THỨC vì có khi ý thức hiện khởi độc lập với 5 thức ngoài, nhưng thường thì phân ra kết hợp với 5 thức ngoài duyên riêng 5 trần. Luận Thành Duy Thức nói: “Không phải chỉ một việc nhận rõ cảnh của 5 thức đang duyên mà ý thức còn giúp cho 5 thức khởi. Lại, ý thức đối với cảnh sở duyên của 5 thức có thể nhận biết được rõ ràng khác với 5 thức. Do đó Thánh giáo nói ý thức gọi là có phân biệt còn 5 thức thì không”. Thì biết, gọi PHÂN LY là do phân ra duyên với 5 trần của 5 thức, không phải vì ý thức qua mắt thành nhãn thức, qua tai thành nhĩ thức v.v... mà gọi là phân ly. Gọi là PHÂN BIỆT SỰ THỨC vì thức này hay phân biệt mọi sự tướng trong, ngoài, đến, đi v.v...

Duy Thức và Lăng Già đều phân THỨC thành 8 là Alaida, Matna, ý thức và 5 thức thuộc sắc căn, còn luận đây chỉ phân thành hai là ý và ý thức. Phân như thế vì chủ ý của luận là thâu gọn các thứ để hành giả nhận được vấn đề dễ dàng. Do Alaida và Matna không bao giờ lìa nhau, chúng là chỗ y tựa của nhau nên có Alaida tất có Matna, mà Matna là sở y của ý thức, nên một khi ý thức khởi thì đủ cả Alaida và Matna. Vì vậy đây gom chung thành Ý cho gọn. Cũng như 6 thức ngoài, chỉ nêu bày ý thức mà không nêu bày 5 thức kia, vì Ý THỨC là đầu mối khởi hoặc tạo nghiệp, còn 5 thức ngoài thì việc của chúng chỉ là liễu biệt cảnh của riêng chúng và cảnh hiện thế nào, chúng chỉ nhận biết đúng thế ấy. Tức không có phần phân biệt chấp thủ thuộc ý thức thì hiện lượng của 5 thức ngoài đồng với thức thứ 8. Chỉ vì mê trong khoảng sát na trôi vào đất ý, chớp mắt lầm qua mà không còn hiện lượng : Khi 5 thức ngoài cảm nhận tướng 5 trần thì ở một sát na đầu, ý thức cùng duyên và cảm nhận tướng 5 trần như 5 thức ngoài kia. Song qua sát na sau, mọi thứ đều thuộc phạm vi của ý thức : Nhận biết so đo, phân biệt và chấp giữ hết mọi cảnh giới. Ngoài khả năng nhận biết phân biệt cảnh hiện có trước mắt, ý thức còn khiến ta nhớ về cảnh đã qua, tưởng đến cảnh chưa tới, cả những thứ không có trên thế gian cũng tưởng ra được … đều là công năng của ý thức. Công năng này là một phần của thức tương tục trên, nên nói “Ý THỨC tức là tương tục thức”.

Hỏi : Vì sao trên đã nói 9 tướng bất giác này, ngài Hiền Thủ phân 3 tế thuộc thức Alaida, còn 6 thô thuộc ý thức, mà đây thì Trí tướng và Tương tục tướng lại phân qua ý?

Đáp : Đó là do phân theo thô và tế để phù hợp với hành tướng tu hành của mỗi địa vị trong quá trình ngược dòng hoàn tịnh. Phân 6 thô thuộc ý thức là theo kinh Lăng Già. Kinh Lăng Già gọi thức thứ 6 này là thức phân biệt (tức bao gồm luôn phần Trí Tướng). Đó là vì đối tượng tu hành của kinh là Bồ tát thuộc hàng Thập Địa. Hành tướng tu hành của các vị là tập trung phá bỏ phần trí tướng phân biệt tế nên không cần phân chi tiết. Còn luận đây thì nêu bày hành tướng tu hành của cả 4 hạng là phàm phu, Nhị thừa, Bồ tát và Bồ tát địa tận. Nhị thừa chỉ mới phá đuợc phần hiện hành của ý thức mà phần tế vẫn còn, chỉ Bồ tát hàng Thập Địa mới phá thẳng được phần tế của ý thức, nên phân Trí tướng và Tương Tục Tướng thuộc về ý mà không phân vào ý thức. Dù phân thế nào thì cũng không lỗi, vì tuy là 8 nhưng không lìa nhau mà có. Ta sẽ thấy cái hay của cách phân chia này trong phần chân vọng huân tập ở phần II.

Cách phân chia hệ thống THỨC giữa kinh và các luận tuy thấy có khác (nên cùng tên mà nghĩa có rộng hay hẹp hơn) nhưng nghĩa lý chung thì hoàn toàn không khác.

NGÃ hiểu nôm na là cái tôi, cái ta của mình đây. NGÃ SỞ là những cái của tôi. Thứ gì kèm theo 2 chữ CỦA TÔI thì biết thứ đó thuộc phần ngã sở.

PHÀM PHU nói đây là chỉ cho người còn vướng nặng ở cái tôi và của tôi. Đây là muốn nhấn mạnh đến phần ý thức còn trong địa vị mê, là của phàm phu không phải của thánh nhân. VƯỚNG NẶNG là ý nghĩa của câu “CHẤP THỦ dính mắc xoay vần sâu” trên. Nói SÂU vì phàm phu không nhận thức được sự huân tập tai hại của ý thức, nên thay vì tìm cách đối trị dừng bớt, lại để nó phát triển khiến sự huân tập ngày càng nhiều. Huân càng nhiều thì sự chấp ngã càng sâu. Huân rồi lại biến, biến rồi lại huân nên nói XOAY VẦN.

Thứ gì xâm phạm đến TÔI hoặc những thứ CỦA TÔI mà sanh sự thì biết mình đang “Chấp thủ dính mắc xoay vần sâu trong ngã và ngã sở”. Đó là ta đang để cho phần ý thức này hiện khởi và làm chủ.

MỖI MỖI VỌNG CHẤP là đụng đâu chấp đó. “THEO SỰ PHAN DUYÊN phân biệt 6 trần” là, ý thức nương vào 2 thứ tương tục và trí thức mà NGOÀI thì bám vào cảnh khởi phân biệt so đo : Vạn pháp biến thành những tướng đối đãi, hòa hợp liên tục là do ý thức liễu tri nghĩa tướng ở quá khứ lấy đó làm căn cứ phán định các pháp trước mắt. TRONG thì nghĩ về những cảnh đã qua, tính toán cho việc chưa tới và so đo hơn thua với việc hiện tại rồi khởi vui, buồn, tham, sân, thương, ghét...

Trong kinh Lăng Già, khi đức Phật nói niết bàn của Phật chính là do diệt ý thức mà có, ngài Đại Huệ đã hỏi: “Chẳng phải dựng lập 8 thức sao?”. Phật trả lời: “Dựng lập!”. Ngài Đại Huệ thưa: “Nếu dựng lập vì sao chẳng nói lìa thức thứ 7 mà chỉ nói lìa ý thức?”. Phật trả lời: “Vì kia làm nhân và kia phan duyên. Thức thứ 7 chẳng sanh …”. Nghĩa là, do mê mà toàn thể Như Lai Tạng thành thức, vọng khởi kiến phần mới có cái chấp ngã của thức thứ 7. Song lỗi lại không ở thức thứ 7 mà ở ý thức : Thức thứ 8 biến hiện ra 5 trần làm cảnh sở duyên cho ý thức. Ý thức nương đó khởi phân biệt, dẫn phát tập khí chứa trong Alaida. Do đó, thức thứ 7 chung khởi chấp ngã và ngã sở, suy lường so đo mà sanh sự tương tục xoay vần nối tiếp. Ngài Hàm Thị nói: “Như biển tâm và sóng ý là do thức thứ 6 duyên với cảnh giới tự tâm hiện ra làm gió thổi mà có sanh diệt. Thức thứ 6 nếu diệt thì tâm ý tự dừng. Như biển cả không gió thì cảnh tượng đây được rỗng sáng vậy”. Lỗi đều từ ý thức nên Nhị thừa hay Đại thừa thì Phật cũng dạy phá bỏ phần ý thức mà thôi. Nhưng qua luận này thì hiểu, dù là quả vị giải thoát của Nhị thừa chăng nữa, chư vị cũng chỉ mới phá được phần hiện hành của ý thức. Phải tu Đại thừa mới phá luôn được phần tế. Do chỗ khác nhau này mà một bên thì thành khô thân diệt trí, một bên lại đầy đủ 4 trí, 3 thân: Thể, tướng và dụng tròn đầy.

Do cái nhìn về pháp có khác, nên hành tướng diệt ý thức của Nhị thừa là ngoài thì hạn chế các căn không cho tiếp xúc với 5 trần, trong thì phá bỏ sự sanh khởi của pháp trần. Như trường hợp Diệt tận định của các vị La Hán. Do hạn chế sự tiếp xúc với 5 trần, chỉ tập trung phá bỏ phần pháp trần nên các vị nhập được cái định tương đương với định của Bát địa nói đây. Trong cái định ấy, do không có cảnh giới làm duyên nên Alaida và Matna không thể sanh khởi. Tuy cũng dẹp bỏ duyên như định vô tưởng của ngoại đạo, nhưng định của A La Hán có khác với định vô tưởng : Trong quá trình tu hành, thánh Nhị thừa có phần quán khổ, không, vô thường, vô ngã nên phá thêm được phần câu sanh ngã chấp thuộc Matna. Song do vẫn thấy có sanh tử để thoát, niết bàn để nhập, tức tâm chấp pháp vẫn còn, nên phần câu sanh pháp chấp thuộc Matna chưa hết, chỉ vì không duyên nên thấy trong lặng. Song khi xuất định đối duyên, các chủng tử ấy lại nẩy mầm, khiến các vị mất cái định trong tịnh. Đây là do chưa liễu tri được các pháp từ tâm sanh, vẫn cho pháp có thật tánh. Vì chấp pháp có thật tánh nên trí phân biệt chưa tan, đối với ngoại cảnh tâm chưa thể bình đẳng. Ngoại cảnh không bình đẳng thì không thể tránh được sự sanh khởi của tâm khi đối duyên tiếp cảnh. Vì lý do này mà xét ra chư vị lại không thể ngang với Bồ tát Bát địa nói đây, động tịnh đều như nhau.

Với Đại thừa, biết “Các pháp từ tâm sanh, tâm không chỗ sanh pháp không chỗ trụ” nên các vị trừ tâm, không trừ cảnh. Đối duyên xúc cảnh, bát phong thổi chẳng động là kim chỉ nam. Tức ở tất cả chỗ, tất cả thời làm sao chứng được cảnh giới hiện lượng của tự tâm, được vô ngại với tất cả pháp. Song trong kinh Lăng Già đức Phật vẫn khuyến cáo: “Đại Bồ tát muốn biết hiện lượng của tự tâm … phải lìa chỗ ồn náo, những tập tục ngủ say, đầu hôm, giữa đêm và gần sáng thường phải giác ngộ”. Đó là vì sự sanh khởi của ý thức đối với cảnh sở duyên quá nhanh chóng, khó mà giữ được hiện lượng của tự tâm. Trong khi hiện lượng của tự tâm ở chỗ vắng lại dễ giác. Cho nên, Bồ tát thì động tịnh đều tu mà tịnh vẫn là yếu tố cần thiết cho việc tu hành. Quán các pháp là biến hiện của tự tâm thì phân biệt không sanh. Phân biệt không sanh thì thấy các pháp y như chính nó. Tác động qua lại như thế lâu xa thì đối cảnh vô tâm. Sanh tử và niết bàn cả 2 đều bình đẳng. Thật tánh các pháp sẽ hiển lộ hoàn toàn như bóng trong gương. Đây là quá trình tu hành của Bồ tát. Chẳng bỏ phương tiện mà chẳng chấp là thật pháp.

KIẾN là chỉ cho kiến hoặc bao gồm tất cả những mê hoặc về LÝ như ngã kiến, tà kiến (Nay hay gọi là Nhân sinh quan và Thế giới quan). Những QUAN NIỆM rơi vào tứ cú có - không, một - khác đều gọi là KIẾN. Chỉ Quán quyển 5 nói: “Tất cả mưu kế toan tính của hàng phàm phu chưa bước vào đường thánh đạo đều gọi là kiến”. ÁI là chỉ cho những mê hoặc về SỰ như tham, sân v.v… Qui Kính Nghi Thống Chân Ký ghi: “Kiến là nói về kiến hoặc, bao gồm 88 kiết sử, chỉ ở ngôi vị kiến đạo mới dứt bỏ được. Ái là tu hoặc, bao gồm 81 phẩm, chỉ ở ngôi tu đạo mới dứt bỏ được”.

KIẾN là nền tảng để ÁI sanh trưởng, ÁI tăng trưởng thì KIẾN được củng cố, khiến sự chấp thủ và phân biệt yêu ghét càng nhiều, nên nói “NƯƠNG NƠI phiền não kiến và ái mà tăng trưởng”. Phiền não là từ chung chỉ cho kiến và ái.

Nương nơi sự huân tập của vô minh, thức khởi. Chẳng phải là chỗ phàm phu hay biết, cũng chẳng phải chỗ trí tuệ của Nhị thừa giác được. Y theo Bồ tát, từ sơ chánh tín phát tâm quán xét, nếu chứng được pháp thân thì biết được ít phần. Cho đến địa vị rốt ráo của Bồ tát cũng chẳng thể biết hết. Duy chỉ có Phật là thấu được tận cùng.

Đây hiển bày Duyên Khởi thậm thâm, là chỗ tối cực vi tế làm phát sanh thức tâm. Phàm phu không giác hoặc chỉ mới giác được niệm diệt, nên “CHẲNG PHẢI là chỗ phàm phu hay biết”. Nhị thừa chỉ giác được niệm dị nên “CHẲNG PHẢI chỗ trí tuệ của Nhị thừa giác được”. Bồ tát đăng địa thì chứng được một niệm đồng chư Phật nên có thấu được chỗ tận cùng, nhưng qua nhất niệm ấy vẫn là Bồ tát giác tướng trụ. Tức chỉ mới được phần sâu chưa được phần rộng, như người trong tù có thể nhìn thấu được một chút trời xanh, nhưng chưa thể nhìn tận hết, nên nói “Biết được ít phần”. Địa vị tận cùng của Bồ tát tuy giác được tướng sanh, song phải thể nhập hoàn toàn với pháp thân ấy, tức ở địa vị Phật, mới có thể biết hết, nên “CŨNG CHƯA thể biết hết”.

Vì sao? Tâm này từ xưa đến nay, tự tánh thanh tịnh mà có vô minh. Bị vô minh nhiễm, có tâm nhiễm ấy. Tuy có nhiễm tâm mà thường hằng, bất biến. Nghĩa ấy chỉ có Phật mới biết. Đó là tâm tánh thường vô niệm nên gọi là bất biến. Vì chẳng đạt được nhất pháp giới nên tâm chẳng tương ưng, hốt nhiên niệm khởi, gọi là vô minh.

VÌ SAO là để giải thích chỗ chỉ Phật mới biết đó. CHỈ PHẬT MỚI BIẾT vì ở địa vị Phật mới thấu được nó hoàn toàn. “TỰ TÁNH thanh tịnh mà có vô minh, bị vô minh nhiễm có nhiễm tâm ấy” là chỉ ra nguyên nhân có nhiễm tâm, là nghĩa tịnh mà thường nhiễm. “TUY CÓ NHIỄM TÂM mà thường hằng bất biến” là nói về nghĩa nhiễm mà thường tịnh. Nhiễm mà thường tịnh, tịnh mà thường nhiễm này chỉ có Phật mới biết.

Đây là chỗ Như Lai Tạng biến thành thức tạng, là chỗ duyên khởi tối sơ làm phát sanh nghiệp thức để có thế giới chúng sanh. Kinh Lăng Già nói cảnh giới này chỉ có Như Lai và các vị Bồ tát có trí tuệ thậm thâm mới thấu được. Trí tuệ thậm thâm là loại trí không do học hỏi thu gom bằng tri thức. Nó đòi hỏi đến phần tu hành trực chứng không qua trung gian suy luận.

“VÌ CHẲNG ĐẠT được nhất pháp giới nên tâm chẳng tương ưng” là nguyên nhân có vô minh. HỐT NHIÊN là muốn hiển bày cái KHỞI ấy không có gốc chỉ do bất giác mà có.

Nhiễm tâm có 6 thứ

6 thứ nhiễm tâm này, 3 cái đầu là ‘tương ưng’, 3 cái sau là ‘bất tương ưng’. Nói TƯƠNG ƯNG vì ngoại cảnh cùng với tâm có sự hòa hợp. Còn tâm cảnh chưa đến với nhau, gọi là BẤT TƯƠNG ƯNG. Các từ này được Luận chủ định nghĩa rõ ngay sau phần 6 nhiễm này.

Thế nào là 6?

1. CHẤP TƯƠNG ƯNG NHIỄM : Địa vị giải thoát của Nhị thừa và Tín Tương Ưng xa lìa.

CHẤP là chỉ cho tướng Chấp thủ và Kế danh Tự ở phần Bất Giác.

ĐỊA VỊ GIẢI THOÁT của Nhị thừa là chỉ cho quả vị A La Hán và Bích Chi Phật. 2 quả vị này đã phá được hoặc phiền não là kiến và ái. Trụ trong cái định của quả vị ấy thì không còn 6 trần làm duyên để sanh khởi tướng Chấp thủ và Kế danh nên nói XA LÌA.

TÍN TƯƠNG ƯNG là quả vị cuối của Thập Tín bước sang Thập Trụ. Ngài Hiền Thủ nói: “Bồ tát Sơ Phát Tâm Trụ, tuy ‘hoặc’ vẫn còn nên chẳng chứng được ‘nhân không’, song Bồ tát ở địa vị này đối với ‘nhân không’ thật được tự tại”. Như vậy, Bồ tát Tín Tương Ưng tuy chưa được ngã không như các vị Nhị thừa vì ‘hoặc’ vẫn còn, nhưng không bị tướng Chấp Thủ và Kế Danh chi phối, nên cũng được xếp chung vào đây.

Tiếp duyên đối cảnh, không vì cái vui mà muốn lưu giữ, không vì cái khổ mà muốn xa lìa, không vì cái lợi của mình mà hại người, hại vật … là biểu hiện cho cái XA LÌA ấy. Đây là cái LÌA của Bồ tát. Nương cái LÌA này, phá tiếp phần nhiễm tương tục và phân biệt dưới.

2. BẤT ĐOẠN TƯƠNG ƯNG NHIỄM : Tín Tương Ưng Địa dùng phương tiện tu học, dần dần có thể bỏ, đắc Tịnh Tâm Địa thì rốt ráo lìa.

BẤT ĐOẠN là không đứt đoạn, chỉ cho sự tương tục không dứt của Tương tục tướng. Dòng vọng niệm của mình là một dòng tương tục không có khoảng hở. TỊNH TÂM ĐỊA là quả vị Sơ địa. Trải qua các vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng dùng các pháp chỉ, quán v.v... tu tập đến khi CHỨNG được pháp thân, gọi là ĐẮC TỊNH TÂM ĐỊA. Đắc Tịnh Tâm Địa thì cắt đứt được sự tương tục của dòng vọng niệm. Vậy theo luận đây, CHỨNG PHÁP THÂN không chỉ là cái chuẩn để đánh giá hạng vị tu hành, mà còn để biết sự tương tục của dòng vọng niệm đã có khoảng hở. Nói RỐT RÁO, vì trước đó chỉ do đè nén mà thấy có khoảng không, không phải đã lìa được cái nhiễm tương tục này, đến khi chứng được một niệm nhân - pháp đều không, dòng tương tục mới thật sự dứt. Dứt, không có nghĩa là dòng vọng niệm đã hoàn toàn hết. Phải đến Bát địa, dòng vọng niệm mới hết, vì lúc ấy trí phân biệt bị dẹp bỏ hoàn toàn. Nhân dứt thì duyên mới thật sự dứt. Vì thế trong phần 4 tướng giác trên, nhập Sơ địa rồi vẫn còn giác tướng tương tục.

Ngài Hiền Thủ nói: “Từ Thập Trụ trở đi, tu phương tiện Tầm và Tư của Duy thức, cho đến Sơ địa thì chứng được chân như viên mãn không có ba tánh. Phân biệt pháp chấp chẳng thể hiện tiền, nên nói ‘Tịnh Tâm Địa rốt ráo lìa”.

3. PHÂN BIỆT TRÍ TƯƠNG ƯNG NHIỄM : Cụ Giới Địa lìa dần, cho đến Vô tướng phương tiện địa mới rốt ráo lìa.

CỤ GIỚI ĐỊA là Nhị địa. VÔ TƯỚNG PHƯƠNG TIỆN ĐỊA là Thất địa. Pháp môn bất nhị mà nhà thiền hay đề cập đến chính là để phá thẳng vào phần ‘Phân biệt trí tương ưng nhiễm’ này. TRÍ nói đây là trí phân biệt nhiễm tịnh không phải là trí phân biệt mang màu sắc chấp thủ của phần Kế Danh Tự.

Từ Cụ Giới Địa cho đến Thất địa vẫn còn dùng phương tiện để trừ sạch hiện tập nên nói LÌA DẦN. Tuy chưa được vô công dụng hạnh như ở Bát địa, nhưng ở địa vị Thất địa, cái giác thường hiện tiền, không còn bị phần nhiễm phân biệt chi phối, nên nói RỐT RÁO LÌA. Trong tất cả thời, tất cả chỗ mà dụng được cái giác để niệm niệm không phân biệt, phiền não không hiện hành, chính là địa vị này. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ tát này thường siêng tu tập phương tiện huệ, khởi đạo thù thắng, an trụ bất động, không một niệm thôi nghỉ phế bỏ. Đi, đứng, nằm, ngồi, nhẫn đến lúc ngủ hay chiêm bao cũng chưa từng tương ưng với các chướng …”.

Tuy ở địa vị này, tất cả tâm tưởng đều dứt không còn khởi trở lại, nhưng kinh Lăng Già vẫn cho cái trí siêu tình ấy là trí lừa què. Chỉ khi vào được hạnh vô công dụng của Bát địa mới được gọi là bậc tối thắng.

4. HIỆN SẮC BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM : Sắc Tự Tại Địa có thể lìa. Do tâm thể bất giác vọng động mà hiện Năng Kiến và Cảnh Giới Tướng.

Cái hiện cảnh giới ấy gọi là HIỆN SẮC BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM. Cái hiện ấy do vô minh mà có, vô minh hết thì ‘hiện sắc’ cũng không, nên nói NHIỄM.

SẮC TỰ TẠI ĐỊA là chỉ cho địa vị Bát địa, còn gọi là Bất Động Địa. Gọi là Bất Động vì trí vô phân biệt nhậm vận tương tục, tướng dụng phiền não không làm lay động được. Kinh Hoa Nghiêm ví hạng Bất Động này như người vừa tỉnh mộng “Ví như có người trong giấc mơ thấy mình té trong sông lớn, vì muốn thoát nạn nên phát đại dũng mãnh, hành đại phương tiện. Do đại dũng mãnh và đại phương tiện nên liền thức giấc. Khi đã thức giấc thì những việc làm trong mơ liền dứt”. Đại dũng mãnh và đại phương tiện chỉ cho ý chí và phương tiện tu hành mang tính dụng công từ Sơ địa đến Thất địa. Nhờ sức dụng công ấy mà hoàn tỉnh, tức nhập Bát địa. Nhờ hoàn tỉnh mà biết tất cả chỉ là mộng mị. Sự dũng mãnh và đại phương tiện kia cũng là những việc làm trong mộng, tỉnh rồi liền không, nên nói ‘vô công dụng’.

CÓ THỂ LÌA vì đã phá được cái nhiễm hiện sắc ấy, nhận ra được tánh như huyễn của cảnh giới. Ngài Hàm Thị nói: “Đệ Bát địa thấy pháp vô ngã, giác tự tâm hiện tất cả cảnh giới thảy như mộng huyễn. Liền dùng tự giác chiếu liễu nhập như huyễn tam muội hiện tất cả thân như trăng đáy nước, bóng trong gương, như ý tự tại khắp các cõi Phật”. Địa này được 2 điều tự tại là hiện thân tướng và quốc độ nên gọi là SẮC TỰ TẠI. Song địa này vẫn còn bị 2 nhiễm dưới chi phối.

5. NĂNG KIẾN TÂM BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM: Tâm Tự tại địa có thể lìa.

Đây là chỉ cho tướng Năng Kiến. Tâm Tự Tại Địa là Cửu địa. Cửu địa phá tiếp một phần câu sanh của sở tri, nên ngoài lực dụng có được khi nhập Bát địa, còn được 4 thứ trí vô ngại sau : 1/ Thông đạt tự tại về ngôn từ. 2/ Hiểu biết giáo pháp một cách không ngăn ngại. 3/ Hiểu biết về nghĩa không ngăn ngại. 4/ Biện tài vô ngại, thấu rõ mọi cơ nghi, khéo vì người nói pháp. Được 4 cái vô ngại này là do tâm đã được tự tại, không bị cái nhiễm NĂNG KIẾN TƯỚNG làm ngăn ngại, nên nói “TÂM TỰ TẠI ĐỊA có thể lìa”.

6. CĂN BẢN NGHIỆP BẤT TƯƠNG ƯNG NHIỄM: Bồ tát Địa tận nhập Như Lai địa có thể lìa.

Đây là chỉ cho phần Nghiệp tướng đầu tiên. Nó là nền tảng để các tướng nhiễm khác sanh khởi nên gọi là CĂN BẢN. Địa vị tận cùng của Bồ tát gọi là BỒ TÁT ĐỊA TẬN. Địa này, kim cang dụ định hiện tiền, dứt một lần 2 loại câu sanh sở tri vi tế và chủng tử phiền não chướng nhậm vận hằng khởi mà nhập biển quả Như Lai.

Nghĩa “chẳng rõ được nhất pháp giới” thì từ Tín tương ưng địa quán xét, học, đoạn … nhập Tịnh tâm địa thì tùy phần được lìa, cho đến Như Lai địa có thể lìa rốt ráo.

“NHẬP Tịnh Tâm Địa thì tùy phần được lìa” vì đã rõ được ít phần về nhất pháp giới. Trải qua 10 địa đến Như Lai Địa thì thấu suốt hoàn toàn nên nói LÌA RỐT RÁO. Lìa rốt ráo là lìa cái CHẲNG RÕ ấy. Sau là giải thích về nghĩa TƯƠNG ƯNG và BẤT TƯƠNG ƯNG ở phần 6 nhiễm trên.

Nghĩa tương ưng là, tâm niệm pháp khác y nơi nhiễm tịnh sai biệt mà tri tướng duyên tướng đồng.

Phần TƯƠNG ƯNG này là chỉ cho 3 nhiễm tâm đầu. Do tâm cảnh hòa hợp mà sanh 3 cái nhiễm này nên gọi 3 cái nhiễm này là TƯƠNG ƯNG NHIỄM.

Giải thích một cách chi tiết thì TÂM là chỉ cho tâm vương, gồm Alaida, Matna, ý thức và 5 thức thuộc sắc căn. NIỆM PHÁP là chỉ cho tâm sở niệm pháp, gồm 51 tâm sở. TÂM NIỆM PHÁP KHÁC vì tâm vương không phải là tâm sở. Tâm sở là loại tâm hệ thuộc vào tâm vương, phải nương tâm vương mới khởi được. Đối với cảnh sở duyên, nó có thể nhận được cả tướng riêng trong khi tâm vương chỉ nhận lấy tướng chung mà thôi. Khác là như thế.

NHIỄM TỊNH SAI BIỆT là chỉ cho cảnh bị phân biệt. Y NƠI NHIỄM TỊNH thì biết TRI TƯỚNG DUYÊN TƯỚNG ĐỒNG là đồng ở mặt nhiễm tịnh. Ngài Hiền Thủ giải thích: “Tâm vương tri tịnh, tâm pháp cũng đồng. Tâm vương duyên nhiễm, tâm pháp cũng đồng. Tri tướng tức năng tri đồng. Duyên tướng tức sở duyên đồng”. Nghĩa là, vương và sở tuy khác nhau, nhưng khi chúng cùng duyên một cảnh mà chúng đồng nhiễm hay đồng tịnh thì gọi là TƯƠNG ƯNG.

Nghĩa bất tương ưng là, tâm bất giác thường không riêng khác, chẳng đồng về tri tướng duyên tướng.

Phần BẤT TƯƠNG ƯNG này chỉ cho 3 nhiễm sau. 3 nhiễm này là do tâm bất giác vọng động mà ra, không phải từ sự hòa hợp giữa tâm và cảnh mà có, nên nói “Tâm bất giác THƯỜNG KHÔNG RIÊNG KHÁC”. Với 3 BẤT TƯƠNG ƯNG, vương sở chưa phân thì không thể lập bày đồng khác, nên nói “CHẲNG ĐỒNG về tri tướng duyên tướng”.

Nghĩa nhiễm tâm là, còn gọi là phiền não ngại, vì hay làm chướng căn bản trí chân như.

Nhiễm tâm là chỉ 6 nhiễm trên. Do 6 nhiễm ấy mà có nhiễm tâm. PHIỀN NÃO NGẠI là tên khác của nhiễm tâm nên nói CÒN GỌI LÀ.

VÌ HAY … là để giải thích vì sao gọi là phiền não ngại, vì che chắn không cho căn bản trí hiển, nên gọi là NGẠI.

CĂN BẢN TRÍ CHÂN NHƯ là chỉ cho cái thể ‘như thật không’ nói trên. Gọi CĂN BẢN vì nó là tánh thể của tất cả pháp nhiễm tịnh. Cũng là căn bản của mọi loại trí nên gọi là CĂN BẢN TRÍ. Tâm không có 6 tướng nhiễm tâm ấy thì chứng được phần căn bản trí này.

Nghĩa vô minh là, còn gọi là trí ngại, vì hay làm chướng thế gian tự nhiên nghiệp trí.

VÔ MINH tức căn bản vô minh, là duyên làm chân thể thanh tịnh biến động. THẾ GIAN TỰ NHIÊN NGHIỆP TRÍ là chỉ cho trí Nhất thiết chủng của Phật. Trí này thông đạt được tổng tướng lẫn biệt tướng của tất cả pháp, lại biết được đạo pháp của tất cả chư Phật và nhân chủng của tất cả chúng sanh trong ba đời, có nghiệp dụng lợi lạc cho loài hàm thức chẳng thể nghĩ bàn. Đây thuộc về hậu đắc trí. Không phá được phần căn bản vô minh này thì không thể có được loại trí tuệ viên mãn như Phật nên nói HAY LÀM CHƯỚNG...

Nghĩa ấy thế nào?

Hỏi “Vì sao nói nhiễm tâm làm chướng căn bản trí, vô minh làm chướng thế gian nghiệp trí?”. Sau là giải thích.

Vì y nhiễm tâm, năng kiến năng hiện, vọng thủ cảnh giới, trái với tánh bình đẳng.

Đây, giải thích phần nhiễm tâm làm chướng căn bản trí. Trên nói “Tự tánh thanh tịnh mà có vô minh. Bị vô minh nhiễm, có tâm nhiễm ấy”. Từ cái nhiễm tâm ấy mà có năng kiến, năng hiện nên nói Y NHIỄM TÂM. Năng kiến, năng hiện là chỉ cho tướng Năng Kiến và Cảnh Giới Tướng trên. Do phân năng - sở mới sanh phân biệt, trái với tánh vốn không năng sở phân biệt, nên nói “TRÁI VỚI tánh bình đẳng”.

Vì tất cả pháp thường tĩnh lặng, không có tướng khởi. Vô minh bất giác, vọng cùng pháp trái, nên chẳng hay tùy thuận được với mọi loại trí thông suốt hết thảy cảnh giới thế gian.

Đây là giải thích vì sao chúng sanh không có, hay chỉ được từng phần cái trí tvròn sáng với vô vàn diệu dụng của Phật. Chỉ vì tâm chúng sanh động mà khônvg có được cái dụng chẳng thể nghĩ bàn ấy.

Giải thích phần NHÂN DUYÊN của sanh diệt xong. Sau là nói về TƯỚNG sanh diệt.

Lại nữa, TƯỚNG SANH DIỆT có 2. Thế nào là hai? Một là thô, vì cùng với tâm tương ưng. Hai là tế, vì cùng với tâm bất tương ưng. Lại có thô trong thô là cảnh giới của phàm phu. Tế trong thô và thô trong tế là cảnh giới của Bồ tát. Tế trong tế là cảnh giới Phật. 2 loại sanh diệt ấy nương nơi sự huân tập của vô minh mà có. Đó là y nhân, y duyên. Y nhân là nghĩa bất giác. Y duyên là nghĩa vọng tạo cảnh giới.

Tướng sanh diệt có 2 là THÔ và TẾ. THÔ là chỉ cho 6 thô, TẾ là chỉ cho 3 tế, đều thuộc bất giác. 3 tế thuộc ‘bất tương ưng nhiễm’ nên nói “Tế vì cùng với tâm BẤT TƯƠNG ƯNG”. 6 thô là do sự hòa hợp giữa tâm và cảnh mà ra, nên nói “Vì cùng với tâm TƯƠNG ƯNG”.

Trong 6 thô, 4 tướng sau thô hơn 2 tướng đầu nên nói 4 tướng sau là THÔ. 4 tướng thô ấy đều thuộc 6 thô nên nói THÔ TRONG THÔ. Nhị thừa, Bồ tát mới phát tâm và phàm phu giác 4 tướng này nên nói “THÔ TRONG THÔ là cảnh giới của phàm phu”. Gọi cả Nhị thừa và Bồ tát mới phát tâm là phàm phu vì các vị chưa thấy được nhân Phật tánh như Bồ tát đăng địa.

Bồ tát đăng địa giác 4 tướng Tương tục tướng, Trí tướng, Cảnh giới tướng và Năng kiến tướng. Tương tục và Trí tướng là 2 tướng đầu trong 6 thô, thuộc phần tế của 6 thô, nên nói TẾ TRONG THÔ. So với Nghiệp tướng của 3 tế thì Cảnh giới tướng và Năng kiến tướng là thô, nên nói THÔ TRONG TẾ. Bồ tát từ Sơ địa đến Thất địa giác 2 tướng Trí và Tương tục. Bồ tát từ Bát địa trở lên giác 2 tướng Cảnh giới và Năng kiến, nên nói “Tế trong thô và thô trong tế là CẢNH GIỚI CỦA Bồ tát”.

TẾ TRONG TẾ là chỉ cho Nghiệp tướng trong 3 tế. Bồ tát địa tận giác được phần Nghiệp tướng, nhưng chỉ ở địa vị Phật mới thấu được toàn bộ cảnh giới lật mê làm ngộ này, nên nói “Tế trong tế là CẢNH GIỚI CỦA PHẬT”. Vì thế, chứng được Phật nhân thì tiêu 9 tướng không 3 tánh, nhưng viên mãn quả Phật lại đủ cả 4 trí lẫn 3 thân.

Do chân như không tánh, bất giác huân thành vô minh mà sanh 3 tế, nên nói “Y NƠI sự huân tập vô minh mà có”. Sanh 3 tế rồi, lại lấy cái tế thứ ba là Cảnh giới tướng làm duyên, tiếp tục sanh khởi 6 thô nên nói Y NHÂN, Y DUYÊN. NHÂN là chỉ cho tướng bất giác đầu tiên tức căn bản vô minh, DUYÊN là chỉ cho Cảnh giới tướng, nên nói “Y NHÂN là nghĩa bất giác, Y DUYÊN là nghĩa cảnh giới vọng tạo”. Cảnh giới vọng tạo là chỉ cho Cảnh giới tướng. Cảnh giới này không thật nên nói VỌNG TẠO.

Nếu nhân diệt thì duyên diệt. Nhân diệt nên tâm bất tương ưng diệt. Duyên diệt nên tâm tương ưng diệt.

Do cái nhân là bất giác mới có 3 tế, nếu bất giác diệt thì 3 tế không còn, trong đó có Cảnh Giới Tướng, nên nói “NHÂN DIỆT thì duyên diệt”. 3 tế thuộc bất tương ưng nên nói “NHÂN DIỆT nên tâm bất tương ưng diệt”. Cảnh Giới Tướng diệt thì không có duyên để sanh khởi 3 thô thuộc tâm tương ưng, nên nói “DUYÊN DIỆT nên tâm bất tương ưng diệt”.

Như vậy 6 nhiễm chỉ thật sự hết khi căn bản vô minh bị phá. Nói vậy không có nghĩa tu thì hành giả phải phá thẳng vào phần ‘căn bản vô minh’ này. Muốnv cũng không được. Vì nó thuộc phần quá tế. Muốn phá được cái tế này thì trước phải phá bớt những cái thô, như muốn thấy lõi bắp thì phải lột bỏ mấy lớp vỏ ngoài trước. Điều này được hiển rõ trong quá trình ngược dòng hoàn tịnh, thủy giác có đến 4 tướng, 6 nhiễm cũng phải trừ dần từ thô đến tế. Đây nói NHÂN DIỆT THÌ DUYÊN DIỆT là để hiểu, dù tương ưng nhiễm đã phá mà cội gốc vô minh chưa phá thì cũng chưa xong. Uẩn - xứ - giới đã phá mà vô minh chưa hết thì chưa phải là niết bàn rốt ráo. Chỉ khi phá được hoàn toàn phần căn bản vô minh thì nhiễm tâm mới thật sự dứt. Diệt Tận Định của A La Hán chỉ mới là hóa thành chưa phải bảo sở cũng vì duyên diệt mà nhân chưa diệt. Chỉ khi nhân diệt thì duyên mới thật sự diệt. Chỉ là duyên diệt thì nhân chưa diệt. Vì thế không nên lưu giữ tư tưởng “Hành diệt thì thức diệt”.

Hỏi : Nếu tâm diệt làm sao tương tục? Nếu tương tục vì sao nói rốt ráo diệt?

TÂM DIỆT là chỉ cho tâm tương ưng lẫn bất tương ưng. TƯƠNG TỤC là chỉ cho sự nối tiếp sau khi đã diệt hết 6 loại nhiễm tâm. Đại khái là, người nghe do quen với tư tưởng TƯỚNG và THỂ là một, nên khi nghe tâm diệt thì thắc mắc rằng ‘Nếu tâm đã diệt thì trí và dụng của Phật là gì? Nếu trí và dụng của Phật còn, chúng sanh vẫn có chỗ y chỉ để tương tục thì sao lại nói là rốt ráo diệt?’. Sau là giải thích.

Đáp : Nói diệt, chỉ là tướng của tâm diệt, chẳng phải thể của tâm diệt. Như gió nương nước mà có tướng động. Nếu nước diệt thì tướng gió đoạn dứt không có chỗ y chỉ. Vì nước chẳng diệt, tướng gió tương tục. Chỉ là gió diệt mà tướng động diệt theo, chẳng phải nước diệt. Vô minh cũng vậy, nương nơi thể của tâm mà động. Nếu thể của tâm diệt thì chúng sanh đoạn dứt, không có chỗ y chỉ. Vì thể chẳng diệt mà tâm được tương tục. Chỉ là si diệt nên tướng của tâm diệt theo, chẳng phải tâm trí diệt.

Trên đã phân rõ tâm chúng sanh có 2 phần là THỂ không sanh diệt và TƯỚNG thì sanh diệt. Đây nói DIỆT, chỉ là tướng của tâm diệt, không phải là thể của tâm diệt. Tướng ô nhiễm diệt mà thể tánh vô vàn công đức không diệt nên không rơi vào đoạn diệt mà hiển bày vô lượng trí, vô lượng dụng. Nói RỐT RÁO DIỆT là diệt hết tướng ô nhiễm của tâm, không phải diệt cái thể của tâm. Ô nhiễm hết thì tâm diệu giác hiển bày, như bụi hết thì mặt gương lộ rõ.

Đưa ra ví dụ gió và nước đây là nhằm để người hiểu TƯỚNG không lìa THỂ nhưng TƯỚNG không phải là THỂ.

Gió là chỉ cho vô minh bất giác. Biển nước chỉ cho chân thể thường trụ. Gió vô minh tác động vào biển nước chân thể ấy khiến nó thành đủ thứ hình tướng nhấp nhô, gọi là sóng. Nếu không có cái chân thể ấy thì gió vô minh nhiều bao nhiêu, sóng cũng không thể có. Nghĩa là, chúng sanh lưu chuyển biến dạng qua 6 đường là do vô minh, nhưng phải có sẵn cái chân thể thường trụ làm nền tảng thì vô minh ấy mới có chỗ tác động mà có biển sóng trong 6 đường. Không có biển nước ấy thì vô minh không nương đâu mà tạo được 2 tướng thô tế trên, chúng sanh cũng không nương đâu mà lưu chuyển. Giờ nói DIỆT không phải là diệt biển nước chân thể mà là diệt vô minh. Gió vô minh diệt thì biển sóng dừng. Biển sóng dừng thì ngay đó là biển nước. Nhiễm ô hết thì ngay chỗ hết ấy là chân như thường trụ đầy đủ vô lượng tướng công đức thanh tịnh.

SI là chỉ cho vô minh. Nói TRÍ là do đối với SI mà nói. Nói TÂM là đối với TƯỚNG CỦA TÂM mà nói. Diệt là diệt SI và TƯỚNG CỦA TÂM không phải là diệt TRÍ và TÂM nên nói “Chẳng phải TÂM TRÍ diệt”.

Đại Thừa Khởi Tín Luận

Hết quyển I