Luận Đại thừa khởi tín
ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.6)
Phần Giải thích - Hiển thị chánh nghĩa - Tâm sanh diệt (Giác)
01/04/2017B. TÂM SANH DIỆT
Y Như Lai Tạng nên có tâm sanh diệt. Đó là, chẳng sanh chẳng diệt cùng với sanh diệt hòa hợp, chẳng phải một, chẳng phải khác, gọi là thức Alaida. Thức ấy có 2 nghĩa hay nhiếp tất cả pháp và hay sanh tất cả pháp. Thế nào là 2? Một là nghĩa giác. Hai là nghĩa bất giác.
Trong kinh Lăng Già, Phật nói: “Đại Huệ! Có khi ta nói không, vô tướng, pháp thân, pháp tánh, bất sanh bất diệt … những câu như thế đều chỉ cho Như Lai Tạng”. Vậy Như Lai Tạng là tên khác của pháp tánh chân như.
Như Lai Tạng vốn không sanh diệt, do không tự tánh nên không tự giữ, bất giác động niệm huân thành vô minh mà có sanh diệt. Từ cái không sanh diệt bất giác mà thành sanh diệt nên nói: “Y NHƯ LAI Tạng nên có tâm sanh diệt”. Sanh diệt thế nào cũng không lìa cái không sanh diệt, nên nói: “CHẲNG SANH chẳng diệt cùng với sanh diệt hòa hợp”. Ngài Hiền Thủ nói: “Động mà làm thành tâm sanh diệt, chẳng tách lìa nhau nên nói ‘hòa hợp’, chẳng phải riêng có một pháp sanh diệt nào khác đến hợp với chân”.
“Chẳng phải một, chẳng phải khác” là nói đến mối liên hệ giữa sanh diệt và không sanh diệt. Sanh diệt không lìa không sanh diệt nên CHẲNG PHẢI KHÁC. Song sanh diệt không phải là cái không sanh diệt, tướng sanh diệt có thể bỏ mà thể của sanh diệt thì không thể bỏ nên CHẲNG PHẢI MỘT.
ALAIDA, còn gọi là thức tạng hay là thức thứ 8. Gọi là TẠNG vì nó có khả năng chứa nhóm và duy trì các chủng tử thiện ác, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu. Nói là chứa nhóm nhưng không nên hình dung Alaida như một cái kho sẵn có. Chỉ do chủng tử tương tục họp lại mà có Alaida. Hòa thượng Thiện Siêu mượn hình ảnh đồ vật để diễn tả thức Alaida như sau: “Tàng thức như một đống đồ vật chứa đủ mọi thứ tốt xấu. Đồ vật từ đống đồ ấy sanh ra. Đồ vật gì cũng chứa vào đống đồ vật ấy. Không có đồ vật thì không có đống đồ vật. Không có đống đồ vật thì cũng không có đồ vật … Tàng thức cũng vậy. Không có chủng tử của các pháp thì không có tàng thức, không có tàng thức thì không có chủng tử các pháp”. Vì thế Alaida vừa có nghĩa là NĂNG TÀNG vừa có nghĩa là SỞ TÀNG. Lại là chỗ loài hữu tình nương đó chấp làm tự ngã nên có thêm cái tên là NGÃ ÁI CHẤP TÀNG.
Thức Alaida này rất vi tế. Hạng hữu tình không có chủng tánh giác ngộ thì không thể biết tận căn để của nó. Ngay các vị Nhị thừa thú hướng tịch diệt cũng không thể thông đạt. Ngoài việc giữ gìn các chủng tử, thức này còn có tác dụng làm chỗ nương một cách bình đẳng cho tất cả pháp và giữ gìn sự lưu chuyển luân hồi trong các đường cũng như sự hoàn diệt niết bàn. Thức này từ vô thủy đến nay niệm niệm sanh diệt, trước sau biến khác, nhân diệt quả sanh, chẳng phải thường nhất nên có thể làm chỗ cho 7 chuyển thức huân tập thành chủng tử. Giống như dòng nước dốc, chẳng phải đoạn chẳng phải thường mà cứ nối tiếp nhau nên có sự trôi nổi chìm đắm của loài hữu tình. Đó là nói sơ về thức Alaida.
THỨC ẤY là chỉ cho Alaida. Thức ấy có 2 nghĩa là giác và bất giác. Giác và bất giác đều có khả năng NHIẾP tất cả pháp và SANH tất cả pháp. NHIẾP là chịu sự huân mà thành chỗ cất giữ chủng tử. SANH là biến ra để làm thành cảnh giới. BẤT GIÁC thì thuận với vô minh nên SANH 3 tế, 6 thô và tất cả nhiễm pháp ở thế gian. GIÁC thì ngược dòng vô minh nên SANH tịnh pháp và 4 thánh xuất thế.
Phần sau giải thích để hiểu về GIÁC và BẤT GIÁC.
B1. GIÁC là tâm thể ly niệm. Tướng ly niệm thì đồng với hư không giới, không chỗ nào mà chẳng khắp.
“ĐỒNG HƯ KHÔNG giới, không chỗ nào mà chẳng khắp” là diễn tả cảnh giới của tâm khi mọi động niệm đã dứt bặt. TÂM THỂ là chỉ cho bản thể hay tự tánh chân như. LY NIỆM là điều kiện để tâm đồng hư không giới, không chỗ nào mà chẳng khắp. Nghĩa là, sanh diệt đã diệt thì không sanh diệt ngay đó hiển bày. Ngài Hám Sơn nói: “Nếu hay ly niệm thì bản thể rỗng nhiên như thái hư không, không chỗ nào mà chẳng khắp. Tất cả cảnh giới sai biệt của vọng niệm hòa thành một vị chân tâm, chỉ là pháp giới nhất tướng không có đối đãi”.
LY NIỆM là không dính với niệm hoặc là không có niệm. Một niệm khởi lên mà ta không dính với nó, hoặc đưa nó về không, gọi là GIÁC. Cái GIÁC này có cạn sâu, được nói rõ ở phần 4 tướng dưới. GIÁC mà tâm đồng hư không giới là chỉ cho tâm thể vô niệm.
Pháp giới nhất tướng tức là pháp thân Như Lai bình đẳng. Y nơi pháp thân ấy mà nói tên bản giác. Vì sao? Nghĩa bản giác là do đối với thủy giác mà nói, vì thủy giác tức đồng bản giác. Nghĩa thủy giác là, y bản giác nên mới có bất giác, y bất giác nên nói thủy giác. Lại, vì giác tột nguồn tâm nên nói là cứu cánh giác. Chẳng giác tột nguồn tâm thì chẳng phải là cứu cánh giác.
Đây là nói rõ từ đâu có 3 tên bản giác, bất giác và thủy giác. BẢN là gốc, nguyên sơ, đầu tiên v.v... BẢN GIÁC là chỉ cho cái GIÁC nguyên thủy, tối sơ - Chính là pháp thân Như Lai bình đẳng không tăng không giảm mà Phật và chúng sanh đồng có. Gọi là đầu tiên vì đã có cái thứ hai, thứ ba … Không có cái thứ hai, thứ ba thì không nói cái đầu tiên. Cái thứ hai, thứ ba đây chỉ cho BẤT GIÁC và THỦY GIÁC.
BẢN GIÁC là chỉ cho bản thể vốn không sanh diệt. Bản thể chân như ấy không tánh nên BẤT GIÁC huân thành vô minh. BẤT GIÁC là không tỉnh không sáng. Tức từ bản giác mà có bất giác, bất giác y cứ nơi bản giác mà có. BẤT GIÁC huân rồi thì luân chuyển vào 5 đường làm chúng sanh. Song luân chuyển thế nào thì cái bản thể diệu minh ấy vẫn thường nhiên, không hề thiếu vắng. Cái không thiếu vắng ấy là LỰC khiến chúng sanh chán sanh tử khổ, hồi tâm tu hành. Dựa vào lực ấy mà lập trí THỦY GIÁC. Những thứ như ngừa quấy, ngăn ác, sám hối tội lỗi, tụng kinh, niệm Phật, thiền định v.v… đều là công năng của trí THỦY GIÁC. Tùy thô tế mà có biểu hiện khác nhau.
THỦY nghĩa là mới. THỦY GIÁC là mới giác. Gọi là MỚI không phải vì nó mới có - công năng của THỦY GIÁC không khác bản giác, cũng là lực nội huân của bản giác mà thôi - mà vì nó được lập thành sau khi đã có bất giác. Bất giác rồi mới GIÁC nên gọi là THỦY GIÁC. Tức mê rồi mới GIÁC nên gọi là THỦY GIÁC. Tu hành để trở về cội nguồn chân thật, đi từ mê trở lại ngộ phải có thứ lớp trừ dần, 4 tướng thô tế phân chia chưa đồng, nên THỦY GIÁC vốn đồng bản giác mà chưa hẳn là bản giác. Vì thế nói TỨC ĐỒNG BẢN GIÁC. TỨC, là thủy giác vốn là bản giác, song chưa đến tột nguồn thì thủy giác chưa thể là bản giác. ĐỒNG, là khi thủy giác nhập lại hoàn toàn với bản giác.
Như vậy, từ BẢN GIÁC mà sanh BẤT GIÁC. BẤT GIÁC rồi, nhờ có BẢN GIÁC mới sanh THỦY GIÁC. Nói THỦY GIÁC vì đã có BẤT GIÁC. Không có bất giác thì không có thủy giác, cũng không đặt vấn đề bản giác. Song có BẤT GIÁC mà không có BẢN GIÁC thì cũng không có trí THỦY GIÁC. Duyên khởi mật thiết với nhau như thế, nên nói “Y bản giác mới có bất giác, y bất giác nên nói có thủy giác”. Đây là hiển bày mặt duyên khởi của 3 cái giác.
CỨU CÁNH là chỗ tột cùng, là cội nguồn chân thật. CỨU CÁNH GIÁC là cái giác tột cùng. Nó là cảnh giới khi thủy giác nhập một với bản giác, nên nói “Giác tột nguồn tâm”. Không nói thẳng bản giác mà nói là CỨU CÁNH GIÁC vì quá trình tu hành ngược dòng hoàn tịnh là đi từ chúng sanh đến Phật, đi từ thấp đến chỗ tận cùng... đã có thứ lớp nên có chỗ tột cùng hay chưa tột cùng. Gọi CỨU CÁNH GIÁC là để phân biệt với 3 cái giác dưới là bất giác, tương tợ giác và tùy phần giác. Đây là tùy tình trạng ly niệm của tâm mà THỦY GIÁC phân làm 4 GIÁC tương ưng với 4 tướng. Nên thứ lớp thì có 4 tên, nhưng tổng quát cũng đều là THỦY GIÁC.
Nghĩa ấy thế nào?
Là để giải thích về trí THỦY GIÁC và CỨU CÁNH GIÁC.
Phần dưới là nói về tướng của 4 cái GIÁC. Song muốn hiểu về 4 cái giác này thì đầu tiên phải nắm được ý nghĩa của 4 tướng sanh, trụ, dị, diệt thông qua 9 tướng Bất Giác nói ở phần sau. 4 tướng đó được lập thành là y vào tâm sanh diệt mà lập, nên nó chỉ là giả lập. Bản thể chân như vốn không có 4 tướng ấy, chỉ là một thể rỗng rang vô sự, đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh mà thôi.
‘Không có cũng không không’ song do bất giác mà pháp trong tam giới dường như CÓ dường như KHÔNG. Bản thể ấy vốn không sanh diệt chỉ vì không tánh nên không tự giữ mà biến thành 9 tướng kê trong phần Bất Giác. Luận Phật Tánh nói: “Tất cả pháp hữu vi, ước về tiền tế thì cùng tướng SANH tương ưng, ước về hậu tế thì cùng tướng DIỆT tương ưng, ước về trung tế thì cùng với tướng TRỤ và DỊ tương ưng”. Cái vừa có gọi là SANH - ứng với phần Nghiệp Tướng là tướng đầu trong 3 tế. Mé tận cùng gọi là DIỆT - ứng với phần Khởi Nghiệp Tướng, là tướng gần cuối của 6 thô. SANH rồi nối tiếp tương tợ gọi là TRỤ - ứng với phần Năng Kiến, Năng Hiện, Trí Tướng và Tương Tục Tướng, là 2 tế sau và 2 thô đầu. Ngay nơi cái nối tiếp ấy mà chuyển biến, gọi là DỊ - ứng với phần Chấp Thủ và kế Danh Tự, là 2 cái thô giữa. Đây chỉ lướt sơ để có thể nắm rõ về tướng của 4 cái GIÁC dưới.
Từ chân tâm, bất giác biến khởi ra cảnh giới chúng sanh rồi trải dài sanh tử luân hồi thì SANH trước DIỆT sau. Song ngược dòng hoàn tịnh tu hành thì phải bắt đầu từ chỗ đang mê mà ngược dòng lại những cái đã rồi, nên tướng DIỆT được giác trước, dần dần giác đến tướng SANH.
1. Như phàm phu, giác biết niệm trước khởi ác nên hay dừng niệm sau khiến nó chẳng khởi, tuy gọi là giác mà thật là bất giác.
Đây, nói về tướng GIÁC thứ nhất. Cái GIÁC này được nói đầu tiên vì nó là tướng thô nhất trong 4 tướng. Thô nhất nên tác dụng của nó cũng yếu nhất và dễ thực hành nhất.
NHƯ PHÀM PHU là, cái giác này dành cho phàm phu. Vì sao dành cho phàm phu? Vì chỉ giác NIỆM ÁC mà thôi. NIỆM ÁC là chỉ cho những niệm làm tổn người hại mình như tham, sân v.v... Giác niệm ác là để niệm ấy không biến thành hành động mà phải bị thân thọ báo trong 3 đường dữ. Vì thế tuy nói phàm phu nhưng là loại phàm phu đã biết tin Nhân quả, không phải loại phàm phu bình thường. Ngài Hiền Thủ liệt những vị này vào hàng Thập Tín.
Ngài Hám Sơn nói: “Đây giác tướng diệt trước. GIÁC TƯỚNG DIỆT là, tâm tạo nghiệp của chúng sanh niệm niệm sanh diệt chưa từng tạm nghỉ, nay giác chỗ một niệm diệt này”. Gọi là giác niệm diệt vì khi ta GIÁC được, thì niệm ác đã có mặt. Sanh rồi mới giác nên không thể giác niệm sanh mà là giác niệm diệt. Căn cứ trên TƯỚNG DIỆT của tâm thì giác tướng diệt chính là giác Khởi Nghiệp Tướng, là giác cái tướng khi nó sắp biến thành hành động. Ngài Hiền Thủ nói: “Bởi lực của vô minh đã chuyển tâm tịnh ấy đến tận bờ mé mà hành tướng thô đến đó là tột cùng, nên gọi là tướng diệt”. Sự chậm trễ này là do cái BIẾT của mình chưa nhuần nhuyễn nhanh nhẹn bằng lực của dòng vọng nghiệp, nên mình chỉ có thể giác được niệm khi niệm đến tận bờ mé tướng diệt, mà chưa thể giác khi chúng vừa sanh.
Không tu thì niệm ác ấy sẽ thành hành động, gây nghiệp rồi thọ khổ. Tu thì BIẾT được sự có mặt của nó và dừng ngay, không để nó nối tiếp. GIÁC chính là BIẾT niệm ác đã có mặt nên nói là GIÁC BIẾT. Ngừng ngay thì niệm ác không tiếp tục, nên nói: “Giác biết niệm trước khởi ác nên hay dừng niệm sau khiến nó chẳng khởi”. KHỞI đây có 2 nghĩa : Hoặc là niệm ác khởi tiếp trong tâm, hoặc là niệm ác biến thành hành động.
Như việc giết người. Giết người thường là kết quả của tâm sân hay tham. Cái sân tham ấy chính là niệm ác. Nếu khi niệm sân hay tham vừa xuất hiện ở tâm mà ta biết niệm vừa hiện lên đó là niệm ác, không thể tiếp tục thì mọi thứ yên ổn. Nhưng vì không ý thức được đó là niệm ác, nên hoặc là việc giết người xảy ra lập tức, hoặc niệm ấy được nuôi dưỡng thành những kế hoạch thiện xảo, sau mới thành hành động. Khởi niệm nối tiếp trên tâm hoặc khởi thành hành động đều diễn tả cái KHỞI đây.
GIÁC nhưng vì sao vẫn gọi là BẤT GIÁC? Vì chỉ mới GIÁC NIỆM ÁC thì quả báo vẫn thuộc về cõi trời người, tức vẫn thấy tam giới là thật. Thấy tam giới thật là cái thấy còn mê, chưa phải là cái giác của Bồ tát và chư Như Lai. Tỉnh nên có giác, nhưng cái tỉnh ấy vẫn chưa ngoài cái mê, nên tuy giác mà vẫn gọi BẤT GIÁC là vậy.
Ngài Hám Sơn giải thích: “Vì tuy là giác niệm ác chẳng để nó khởi, nhưng thật ra chỉ là ở trên tâm sanh diệt mà đè nén, chưa thấy được tánh chẳng sanh diệt”. Tâm sanh diệt đây là chỉ cho ‘phần đoạn sanh tử’ của chúng sanh. Nói là GIÁC niệm, nhưng cái giác ấy chỉ là loại trừ dần niệm ác, vẫn chưa thoát được sự chi phối của dòng nghiệp lực. Như đứng trong dòng thác, xoay sở qua lại để thuyền xuôi được theo dòng thác khỏi lật chết, chưa phải là thoát được dòng thác. Lấy niệm sanh diệt trừ niệm sanh diệt nên tuy GIÁC mà vẫn gọi là BẤT GIÁC.
2. Như trí quán của Nhị thừa và Bồ tát mới phát tâm… giác ở niệm dị, niệm không tướng dị. Vì xả bỏ tướng chấp trước phân biệt thô nên gọi là tương tợ giác.
Đây là GIÁC NIỆM DỊ. Cái GIÁC này dành cho bậc Nhị thừa và chư vị Bồ tát thuộc Tam hiền nên nói “mới phát tâm v.v...”. NHỊ THỪA là chỉ cho Thanh văn và Duyên giác. TRÍ QUÁN là hành tướng tu hành của chư vị. Pháp tu của chư vị là quán các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh … thường ở chỗ vắng vẻ, luôn thủ hộ các căn để cảnh không thể làm duyên sanh nghiệp, dùng một niệm không phá trừ sự sanh khởi của tâm.
BỒ TÁT là chỉ chung cho các vị tu Đại thừa cầu Phật quả chẳng kể là xuất gia hay tại gia. Thanh văn và Duyên giác chuyển tâm tu theo Phật đạo cũng gọi là Bồ tát. BỒ TÁT MỚI PHÁT TÂM là chỉ cho những vị phát nguyện tu Đại thừa và bắt đầu thực hành công phu. Không có phần công phu này thì không phải là Bồ tát mới phát tâm nói đây.
2 loại vị này đều tập trung vào việc trừ bỏ những sanh khởi trong tâm để đưa tâm trở về trạng thái KHÔNG trong lặng của nó. Vì thế, niệm ác hay niệm thiện, niệm vui hay niệm buồn v.v… các vị đều GIÁC. Những trạng thái hiện lên trong tâm đó đều gọi chung là TƯỚNG DỊ. Dị là không giống nhau. Những thứ hiện hành đó không ở một dạng nhất định nào nên gọi là DỊ. Song niệm dù muôn hình vạn trạng bao nhiêu mà giác được thì niệm ấy liền không. Cái KHÔNG ấy là bình đẳng, không có tướng khác nên nói “Giác ở niệm dị, niệm không tướng dị”. Cái KHÔNG nhờ giác được tướng dị đó tuy gần với cái KHÔNG của bản giác, nhưng chưa phải là cái không của bản giác nên nói TƯƠNG TỢ. Vì đạt được quả vị rốt ráo của Nhị thừa chăng nữa, thì cái KHÔNG rốt ráo ấy cũng mới là HÀNH không, THỨC vẫn còn. Cái KHÔNG của Phật tánh là THỨC cũng không. Vì thế, giác tướng dị tuy cũng gọi là GIÁC nhưng chỉ mới là TƯƠNG TỢ, chưa phải là chính nó.
Chỗ hướng đến của Nhị thừa và Bồ tát phát tâm tu Phật tuy khác nhau, nhưng hành tướng tu hành cũng như kết quả đạt được thì như nhau, nên phần GIÁC TƯỚNG DỊ này bao gồm cả Nhị thừa lẫn Bồ tát mới phát tâm. Dẫn Nhị thừa ra đây là để hiểu thêm chỗ đứng của chư vị đối với cả quá trình tu Phật. Nhị thừa buông được TƯỚNG DỊ nhưng thủ chặt cảnh giới KHÔNG ấy làm niết bàn. Bồ tát buông được TƯỚNG DỊ, nhưng biết cái không ấy mới chỉ là hóa thành chưa phải bảo sở, nên không an trụ nơi cái lạc ấy mà tiến lên phá tiếp tướng trụ để trở về cội nguồn chân thật nhất tâm, đầy đủ vô lượng tướng công đức thanh tịnh.
TƯỚNG CHẤP TRƯỚC PHÂN BIỆT THÔ là chỉ cho tướng Chấp Thủ và Kế Danh Tự ở phần Bất Giác sau. CHẤP TRƯỚC là chỉ cho tướng Chấp Thủ. PHÂN BIỆT THÔ là chỉ cho Kế Danh Tự. Tham, sân, khổ, vui … Những hình tướng biến khác ấy đều biểu hiện cho trạng thái dính mắc của tâm đối với cảnh. Nếu những tướng trạng ấy không, tức sự dính mắc không còn. Dính mắc không thì xem như đã giác phá được tướng Chấp Thủ. Tướng Chấp Thủ đã phá thì tướng Kế Danh cũng chẳng còn nghĩa lý, nên nói “Xả bỏ tướng chấp trước phân biệt thô”..
Xả bỏ được những tướng đó thì tâm coi như không, nhưng cái không ấy chưa phải là cái không của Phật tánh, vì nó còn vướng cái phân biệt tế Trí Tướng nên nói “VÌ XẢ BỎ tướng chấp trước phân biệt thô, nên gọi là tương tợ giác”. Quả vị rốt ráo của Nhị thừa thấy như phá được tướng tương tục của tâm, nhưng thật ra chỉ mới là phần hiện hành, nên luận chỉ nói “XẢ BỎ TƯỚNG chấp trước phân biệt thô” mà không nói đến việc xả bỏ tướng tương tục.
3. Như bậc pháp thân Bồ tát giác ở niệm trụ, niệm không tướng trụ. Vì lìa tướng niệm phân biệt thô nên gọi là tùy phần giác.
NIỆM TRỤ là chỉ cho 4 tướng Năng Kiến Tướng, Cảnh Giới Tướng, Trí Tướng và Tương Tục Tướng trong phần Bất Giác sau. NĂNG KIẾN là chỉ cho cái thấy của mình. Thân tứ đại và thế giới mình đang sống đây liệt chung vào CẢNH GIỚI TƯỚNG. Khi đã có cái thấy và cảnh giới bị thấy thì lập tức trên cảnh lại sanh phân biệt. Cái phân biệt này gọi là TRÍ TƯỚNG. Phân biệt rồi sanh ái trước nên tâm càng động, niệm càng huân … vì thế niệm niệm tương tục không dứt. Cái tương tục không dứt đó gọi là TƯƠNG TỤC TƯỚNG.
Gọi là NIỆM TRỤ, vì Nghiệp Tướng - tức tướng SANH - xuất hiện thì lập tức 4 tướng ấy theo đó mà dàn trải, nên gọi là niệm trụ. Ngài Hiền thủ nói: “Vô minh cùng tướng sanh hòa hợp chuyển tâm tịnh ấy đến chỗ này, hành tướng của nó còn tế, pháp chấp kiên trụ nên gọi là tướng trụ”.
PHÁP THÂN BỒ TÁT là chỉ cho những vị đã trực chứng được nhân Phật tánh, chính là tự tánh chân như không sanh không diệt của chính mình. Là chỉ cho chư vị Bồ tát thuộc hàng Thập Địa, luận đây gọi là NHƯ THẬT TU HÀNH. Do chư vị đã khoét thủng được màn vô minh, đặt chân lên đất Như Lai, nên gọi là pháp thân Bồ tát. Tuy cùng được một niệm đặt chân ấy, mà viên mãn quả Phật có tới 10 địa, chưa được hoàn toàn như Phật, nên gọi là ‘tùy phần giác’.
TÙY PHẦN GIÁC tức là giác từng phần. Chứng được nhân Phật tánh rồi nhưng tập khí bao đời chưa xong, pháp thân chưa hiển lộ tròn đầy, qua cái niệm đốn ngộ ấy, hiện thân vẫn là Bồ tát giác tướng trụ nên gọi là giác từng phần.
BỒ TÁT GIÁC TƯỚNG TRỤ là, tuy đã kiến tánh nhưng thân, căn, cảnh và sự nhận biết về những thứ ấy vẫn còn, trí phân biệt chưa hết, dòng tương tục tuy có đứt đoạn nhưng chưa dứt hẳn. Bởi cớ ấy mà gọi là TỪNG PHẦN. Hành thiền mà nhận chân được thật tướng của 4 tướng ấy, gọi là GIÁC TƯỚNG TRỤ. Tùy mức độ giác mà có 10 địa. Ngài Hám Sơn nói: “Phần phá, phần chứng, gọi là tùy phần giác”.
TƯỚNG PHÂN BIỆT THÔ là để phân biệt với Nghiệp tướng phân biệt tế. Nói phân biệt tế là chỉ cho sự liễu biệt của Alaida thức, chỉ là liễu biệt mà không có sự tham gia của ý thức phân biệt. Chính cái Nghiệp tướng này mà dù đạt được tâm giác chiếu không còn cảnh giới lục trần, tâm ấy vẫn chưa phải là pháp tánh chân như tròn khắp mà Phật và chúng sanh đồng có, nên nói “VÌ LÌA TƯỚNG niệm phân biệt thô nên gọi là tùy phần giác”.
3 tướng trên đều chưa gọi là CỨU CÁNH GIÁC vì chưa đến được cội nguồn của tâm.
4. Như Bồ tát địa tận đầy đủ phương tiện, nhất niệm tương ưng, giác tâm sơ khởi, tâm không có tướng sơ. Vì xa lìa niệm vi tế nên được thấy tâm tánh, tâm tức thường trụ, gọi là cứu cánh giác.
Đây là giác TƯỚNG SANH.
BỒ TÁT ĐỊA TẬN là Bồ tát ở vị kế Phật. PHƯƠNG TIỆN là những phương thức tiện dụng … mà nhờ chúng, người tu đạt được cứu cánh niết bàn. Như niệm Phật, ngồi thiền, chỉ - quán v.v… Phương tiện thì đủ từ GIÁO đến SỰ, từ tự lợi đến lợi tha. Ngài Hám Sơn nói: “Phương tiện là các pháp quán, hạnh, tu, đoạn”. Vậy ĐẦY ĐỦ PHƯƠNG TIỆN là, công hạnh đã tròn, hoặc nhiễm đã hết, chỉ là một nguồn tâm chân thật.
NHẤT NIỆM TƯƠNG ƯNG là chỉ cho cái trí đoạn được phần tập khí cuối cùng, thủy giác hợp nhất hoàn toàn với bản giác. TƯỚNG SANH hay NIỆM VI TẾ là chỉ cho Nghiệp Tướng, là động niệm tối sơ của tâm biến khởi. Động niệm vi tế này là động niệm đầu tiên làm chỗ nương cho Năng Kiến và Cảnh Giới xuất hiện. GIÁC TƯỚNG SANH chính là giác cái niệm làm tâm động đó. Nên nói GIÁC TÂM SƠ KHỞI. Ngài Hiền Thủ nói: “TÂM SƠ KHỞI là, căn bản vô minh y nơi giác nên có mê mà làm động tâm tịnh ấy, khiến niệm vi tế sanh khởi, nay nhờ giác mà biết nếu rời bản giác thì không có bất giác, tâm động ấy vốn tịch diệt. Như do lầm phương hướng mà đông thành tây. Hết lầm thì tây chính là đông, phương tây hoàn toàn không có, nên nói TÂM KHÔNG CÓ TƯỚNG SƠ. Ở 3 cái giác trước, mỗi cái đều có sở giác vì động niệm chưa hết, nên chỉ nói niệm không có tướng dị, tướng trụ v.v... Đây ở địa vị cứu cánh, động niệm đều hết, chỉ là nhất tâm, nên nói tâm không có tướng sơ vậy”.
Cho nên Tudala nói: “Nếu có chúng sanh hay quán vô niệm thì hướng về trí Phật”.
Đây là câu kết sau khi đã giải bày toàn bộ 4 tướng THỦY GIÁC. Chỗ tột cùng cần đến thì vô niệm. VÔ NIỆM, tạm hiểu là không khởi niệm. Pháp tánh chân như ấy hoàn toàn không có niệm tưởng hư vọng. Vì thế, tu để trở về nguồn cội chân thật thì phải quán vô niệm. QUÁN VÔ NIỆM là quá trình tu hành được giải bày từ phần ‘tương tợ giác’ đến ‘cứu cánh giác’ trên. TRÍ PHẬT là chỉ cho cội nguồn nhất tâm chân như. CHÚNG SANH là chỉ chung cho tất cả thánh, phàm, tăng, tục chưa thành Phật. Bất kể là tăng hay tục, ai thực hành được cái quán vô niệm ấy trong tất cả thời thì người đó đang hướng về trí Phật. Nói là HƯỚNG vì còn QUÁN.
Lại tâm khởi, không có tướng sơ có thể biết mà nói biết tướng sơ chính là vô niệm. Cho nên, tất cả chúng sanh chẳng gọi là giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm tương tục, chưa từng ly niệm, nên nói vô thủy vô minh.
LẠI TÂM KHỞI là lập lại câu nói giác tâm sơ khởi trên. Chẳng phải khi giác mà biết có tướng sơ nên nói “KHÔNG CÓ tướng sơ có thể biết”. Đã không có tướng sơ có thể biết vì sao lại nói biết tướng sơ? Giải thích rằng, nói biết tướng sơ chính là vô niệm. Như khi hết lầm thì biết tây chính là đông, hoàn toàn không có tướng tây có thể biết. Nói biết tướng tây chính là đông vậy.
CHO NÊN, là từ những điều vừa nói đó mà ngẫm ra điều kế tiếp đây. “TẤT CẢ chúng sanh chẳng gọi là giác”. Vì sao chẳng gọi là giác? Vì chưa từng rời khỏi niệm, dù chỉ là một ý tưởng MUỐN LY thoáng qua trong đầu. Không ai dám nghĩ rằng, không có suy nghĩ và những cảm giác vui buồn đây mà con người sống được. Thật ra, càng ít niệm tưởng định kiến bao nhiêu sống càng khỏe, càng hạnh phúc bấy nhiêu. Chưa từng giác tức chưa từng tỉnh. Không tỉnh tức là mê. Mê nên gọi là vô minh. Cái vô minh này không biết có mặt từ bao giờ nên nói là VÔ THỦY VÔ MINH. Vô thủy là không có bờ mé ban đầu. Không có bờ mé ban đầu vì vô minh này không có chất thật, không thật nên không tìm được chỗ khởi đầu của nó. Minh và vô minh chỉ là 2 mặt duyên khởi của một chân tâm thường trụ bất biến mà thôi.
Nếu được vô niệm thì biết sanh, trụ, dị, diệt là tướng của tâm, vì đồng vô niệm, thật không có sự biến khác của thủy giác. Vì 4 tướng đồng thời có, đều không tự dựng lập, xưa nay bình đẳng, đồng một giác.
NẾU ĐƯỢC VÔ NIỆM là khi thủy giác đã hợp nhất với bản giác, khi pháp thân đã hiển lộ hoàn toàn. VÌ ĐỒNG VÔ NIỆM là cái nhân (điều kiện) để biết 4 tướng sanh, trụ, dị, diệt là tướng của tâm. Vì sao gọi là tướng của tâm? Vì tâm vô niệm chính là bản thể của 4 tướng ấy. Chúng là mặt duyên khởi của một bản thể vô niệm chứ bản thân chúng không có tự thể riêng. Là SANH vì có DIỆT và TRỤ. DIỆT và TRỤ là nhân khiến lập tướng SANH. Nói là DIỆT vì có SANH và TRỤ. DIỆT là nhân để SANH và TRỤ được lập thành. Tướng DỊ không rời tướng TRỤ mà có. 4 tướng ấy luôn là duyên khởi của nhau nên có thì đồng có, không thì đồng không, không có thứ lớp trước sau như ta đang thấy hiện nay. Hiện nay thấy vậy là do mê mà thấy. Cái đồng khởi, đồng mất này cho thấy 4 tướng ấy không có tự tánh. Vì nếu có tự tánh thì SANH không thể đồng thời với DIỆT. Không tự tánh, xuất hiện nhờ duyên nên nói KHÔNG TỰ DỰNG LẬP.
Trong kinh Trung Bộ, Phật nói: “Ai thấy được duyên khởi, người ấy thấy pháp. Ai thấy được pháp người ấy thấy duyên khởi”. THẤY PHÁP là thấy được thật tướng của vạn pháp, chính là trở về cội nguồn chân thật của mình. THẤY DUYÊN KHỞI chính là trực nhận được chỗ nhân quả đồng thời. Đã đồng thời thì thủy giác không có thứ lớp trước sau nên nói “Không có SỰ BIẾN KHÁC của thủy giác”.
XƯA NAY tức khi nào cũng vậy. BÌNH ĐẲNG ĐỒNG MỘT GIÁC là nói lên thật tướng của bất giác và thủy giác. Chẳng qua chỉ do mê và ngộ mà thấy có tướng khác, không phải cái khác này xuất phát từ chính bản thân chúng. Như nhặm mắt mà thấy bóng đèn có vân tròn chung quanh, không phải bóng đèn thay đổi từ cái không vân tròn sang có vân tròn. Một khi mắt hết nhặm thì biết bóng đèn có vân chẳng qua chỉ là bóng đèn không vân.
Lại nữa, bản giác tùy nhiễm phân biệt sanh 2 tướng, cùng bản giác kia chẳng tách lìa nhau. Thế nào là 2? Một là Trí tịnh tướng, hai là Bất tư nghì nghiệp tướng.
NHIỄM tức là nhiễm ô. Như áo trắng vấy mực, người không uống rượu nhưng ở gần người uống rượu rồi sinh uống rượu … những hình thức như thế gọi là nhiễm. Vậy, nhiễm là đối với tịnh mà nói, là chỉ cho những thứ mới huân, không có gốc thật. Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu nói về sự NHIỄM ở tâm như sau: “Lấy tâm trói buộc hiện tại mà nhìn các pháp thì cái một và nhiều sẽ trở ngại lẫn nhau, niệm niệm bám víu gọi là nhiễm”. Gọi NHIỄM PHÂN BIỆT vì nhiễm là do phân biệt mà có.
BẢN GIÁC TÙY NHIỄM cũng là một loại vọng tâm nhưng không phải là loại vọng tâm gây nghiệp tạo tội của chúng sanh, mà là cái vọng tâm hoàn tịnh, chính là chỉ cho tướng thủy giác. Ngài Hiền Thủ nói: “Thủy giác này không phải mới khởi, chính là bản giác tùy nhiễm tạo ra”.
Vì sao lại có tùy nhiễm? Ngài Hiền Thủ nói: “Vì nếu lìa nhiễm duyên thì chẳng thành được, nên nói tùy nhiễm”. Nghĩa là, nhờ cái tùy nhiễm hoàn tịnh ấy mới có được 2 tướng đây. Nên nói “Tùy nhiễm phân biệt SANH 2 tướng”. Bản giác chính là thể tánh của 2 tướng ấy nên sanh rồi chẳng rời bản giác, vì thế nói CHẲNG TÁCH LÌA NHAU.
TRÍ TỊNH TƯỚNG, nghĩa của nó nằm ở 2 từ TRÍ TỊNH. TRÍ TỊNH là cái trí có được khi bản giác tùy nhiễm hoàn tịnh.
BẤT TƯ NGHÌ NGHIỆP TƯỚNG, tương tự như phần Trí tịnh, nghĩa của nó nằm ở mấy từ ‘bất tư nghì nghiệp’. NGHIỆP là chỉ cho nghiệp dụng, là những cái dụng có được khi bản giác tùy nhiễm hoàn tịnh. Cái dụng này không thể dùng đầu óc suy nghĩ đây mà nghĩ ngợi bàn luận, nên nói BẤT TƯ NGHÌ. Như 32 ứng thân của Quan Âm Đại Sĩ v.v… đều là nghiệp dụng của bản giác tùy nhiễm hoàn tịnh.
Phần sau là đi vào chi tiết của 2 tướng ấy.
B1a. TRÍ TỊNH TƯỚNG là, y nơi pháp lực huân tập, như thật tu hành, đầy đủ phương tiện, phá tướng thức hòa hợp, diệt tướng tương tục của tâm, hiển bày pháp thân, trí thuần tịnh.
NHƯ THẬT TU HÀNH là chỉ cho những vị đã chứng được nhân Phật tánh. Nương cái nhân vô sanh ấy mà tu chân như tam muội không thủ, không niệm nên nói Y NƠI PHÁP LỰC HUÂN TẬP. Nói HUÂN TẬP là muốn nói cái LÝ được trực nhận đó phải quán suốt trên tất cả SỰ để LÝ - SỰ viên dung mà thể nhập SỰ - SỰ viên dung. Phần PHÁP LỰC này, ngài Hiền Thủ cũng như ngài Hám Sơn không chỉ cho nó là lực huân tập của chân như bên trong mà còn là lực huân tập của dòng giáo pháp bên ngoài. Lấy đó tu tư lương gia hạnh thiện căn, chứng nhân vô sanh, đăng địa tu chân như tam muội.
ĐẦY ĐỦ PHƯƠNG TIỆN, chỉ cho chỗ hành của Bồ tát địa tận. PHÁ THỨC HÒA HỢP là phá vào phần nghiệp thức. Chính là ‘giác tướng sơ’ đã giải thích ở phần Cứu Cánh Giác. Tướng thức hòa hợp đã phá, tức sanh diệt đã diệt, chỉ còn cái thể không sanh diệt nên nói TRÍ THUẦN TỊNH.
TƯỚNG TƯƠNG TỤC nói đây là chỉ cho tương tục vi tế. Kinh Lăng Già gọi là lưu chú. Ở Sơ địa, đã phá thủng được tướng tương tục của dòng vọng niệm, nhưng phải đến địa vị tột cùng kế Phật mới dừng hết tương tục vi tế của tâm mà thể nhập quả vị Phật.
Tùy theo pháp thân hiển lộ từng phần hay viên mãn mà tướng trí tịnh này có từng phần hay viên mãn.
Nghĩa ấy thế nào? Vì tất cả tướng tâm thức đều là vô minh. Tướng vô minh chẳng lìa giác tánh, chẳng thể hoại, chẳng phải chẳng thể hoại. Như nước của đại dương, nhơn nơi gió mà dậy sóng. Tướng nước và tướng gió chẳng rời nhau mà nước chẳng phải là tánh động. Nếu gió ngừng, tướng động ắt diệt nhưng tánh ướt chẳng hoại. Tự tánh thanh tịnh của tâm chúng sanh cũng như vậy, nhơn gió vô minh mà động. Tâm và vô minh đều không hình tướng, chẳng tách rời nhau, mà tâm chẳng phải tánh động. Nếu vô minh diệt thì tương tục ắt diệt mà trí tánh chẳng hoại.
NGHĨA ẤY THẾ NÀO là để giải thích vì sao những tướng khác như tướng hòa hợp, tương tục của tâm đều dứt mà tướng TRÍ TỊNH lại có?
Tướng tương tục và tướng hòa hợp đều diệt bởi nó thuộc phần tâm thức sanh diệt. TÂM THỨC là chân tâm do động niệm mà biến thành thức. Tướng sanh diệt có, chẳng qua là từ chỗ không sanh diệt mà thành sanh diệt, như nước biển gặp gió mà thành sóng. Hết gió thì hết sóng nhưng nước biển vẫn còn. Không phải không gió, không sóng là không luôn nước. Như vậy, sóng là tướng biểu trưng cho thể ướt của biển khi ở trạng thái động, nước là tướng biểu trưng cho thể ướt của biển khi ở trạng thái tĩnh. TRÍ TỊNH TƯỚNG chính là phần nước đó, là tướng biểu trưng cho phần thể không sanh diệt. Vì thế, khi không có gió vô minh thì các tướng khác đều diệt, nhưng tướng của cái nguyên thể ban đầu vẫn còn. Kinh Lăng Già nói: “Chẳng phải tự tướng chân thức diệt, chỉ là nghiệp tướng diệt”. Đây là nói gọn lại phần ví dụ trên để dễ nắm vấn đề.
Sóng biển thì làm lật thuyền, nhưng nước biển thì lại tải thuyền. Cái tải ấy là dụng của nước khi ở thể tĩnh. Cái dụng này chỉ cho phần BẤT TƯ NGHÌ NGHIỆP TƯỚNG nói sau.
1b. BẤT TƯ NGHÌ NGHIỆP TƯỚNG là, y nơi Trí tịnh tướng hay tạo mọi cảnh giới thù thắng vi diệu. Đó là, vô lượng tướng công đức thường không đoạn dứt, tùy theo căn tánh của chúng sanh, tự nhiên tương ưng với mọi thứ mà hiện để được lợi ích.
Y, là nương vào đó. Loại nghiệp dụng này chỉ có khi tướng Trí tịnh đã xuất hiện. Nghĩa là, bản giác tùy nhiễm hoàn tịnh rồi, mới có được loại nghiệp dụng chẳng thể nghĩ bàn này, nên nói Y NƠI TRÍ TỊNH TƯỚNG.
CẢNH GIỚI THẮNG DIỆU này, Thật Tánh Luận nói: “Thân của chư Phật Như Lai như hư không, không tướng. Chỉ vì các bậc thắng trí mà làm thành cảnh giới 6 căn, thị hiện thành sắc tướng trang nghiêm, phát ra âm thanh vi diệu, khiến người người ngửi được giới hương của Phật, nếm được diệu pháp của Phật, đạt được giác tam muội mà thấu được diệu pháp thâm sâu, nên gọi là cảnh giới vi diệu”. Cảnh giới này không phải chỉ Phật mới có. Theo kinh Lăng Già, Bồ tát từ địa thứ ba trở đi đã có thể hóa hiện ra vô số huyễn thân, tùy niệm thị hiện làm lợi ích cho chúng sanh.
ĐÓ LÀ, là giải thích “Trí tịnh tướng hay tạo mọi cảnh giới” như thế nào. Là tùy theo căn tánh của chúng sanh mà hiện để được lợi ích. LỢI ÍCH là, tạo đủ các loại hạnh duyên hỗ trợ để giúp chúng sanh quay dần về bản tâm thanh tịnh của mình. Hạnh duyên này, hình tướng của nó không nhất định. Có thể là hình tướng trang nghiêm đầy đủ lực dụng thần thông, biện tài vô ngại như Phật Thích Ca Mâu Ni. Có thể là hình tướng dịu hiền của một Quán Thế Âm hay hình tướng dữ tợn của một ngài Tiêu Diệm. Có thể là hình tướng của một người đàn bà nghèo khổ xin ăn cùng cực cùng đàn con nhỏ … Song dù với hình tướng nào, tất cả đều biểu trưng cho một thể TỪ BI vô hạn. Sao nói vô hạn? Vì đều cùng mục đích giúp chúng sanh “Lìa tất cả khổ, đạt được cái vui rốt ráo”.
Ứng thân và báo thân của chư Phật cũng như của chư vị Bồ tát đăng địa đều tùy thuộc vào căn tánh của chúng sanh mà hiện, nên tuy nói TẠO mà thật là không có tạo, chỉ là CẢM nên ỨNG mà thôi. Phần CẢM ỨNG này là sự vi diệu không thể nghĩ bàn của bản tâm thanh tịnh. Tâm của chúng sanh càng thanh tịnh thì càng dễ gặp Phật. Vì thế nói “Vì các bậc thắng trí mà làm thành cảnh giới lục căn”. THẮNG TRÍ là chỉ cho những vị tâm tương đối thanh tịnh. Đây là lý do vì sao vào thời đức Phật còn tại thế và sau đó một ít thôi, chúng sanh đọc học kinh luận dễ dàng mà chứng thánh đạo cũng nhiều. Vì căn tánh của họ vốn thắng diệu. Vốn thắng diệu, họ mới gặp được Phật và cách thời Phật ra đời không xa. Nói vậy không có nghĩa càng xa Phật thì căn tánh của chúng ta càng lụn bại. Càng xa Phật mà không tu tập thì căn tánh lụn bại là lẽ tất nhiên. Nhưng càng xa Phật mà càng tu tập miệt mài thì tuy không thấy được tướng Phật với 32 tướng tốt trang nghiêm, nhưng lại thể nhập được chính ông Phật vô tướng vô trụ mà Phật cùng chúng sanh đồng có.
Cái ứng và cảm này cho thấy DUYÊN KHỞI chi phối mọi sự mọi vật ở thế gian. Không có thứ gì tự xuất hiện một mình mà đều có nhân duyên. Phật pháp cũng như thế. Phải có nhân có duyên, không có gì tự khởi. Trí và bi của chư Phật đầy đủ trùm khắp, nhưng chúng sanh không có căn lành, không biết hướng về, tức không cảm thì không có sự ứng hiện. Cầu mà ứng chính là do công đức mình đã tu tạo nhiều đời trước đây. Không cầu mà ứng bởi căn lành quá thành thục. Như nước và mặt trăng, chỗ nào nước trong không bị che chắn thì trăng liền hiện.
CÔNG ĐỨC nói đây là chỉ cho trí tuệ thanh tịnh nhiệm mầu không có bờ mé của pháp tánh chân như, nên nói THƯỜNG KHÔNG ĐOẠN DỨT.
Lại nữa, tướng giác thể có 4 nghĩa đại, đồng với hư không và giống như kính sạch trong.
GIÁC THỂ là nói về thể của cái giác, chính là bản giác hay tâm chân như. Giác thể này có 4 tướng. Vì giác thể rộng lớn không bờ mé, bao hàm tất cả như hư không, nên nói là ĐẠI. Lại tròn sáng mà hay hiện như kính sạch trong, nên lấy hư không và kính làm dụ.
Thế nào là bốn?
1. NHƯ THẬT KHÔNG KÍNH, xa lìa tất cả tướng cảnh giới của tâm, không pháp có thể hiện, chẳng phải nghĩa giác chiếu.
Đây là nghĩa NHƯ THẬT KHÔNG đã nói ở phần Tâm Chân Như. Nói NHƯ THẬT bởi cái không này là THỂ TÁNH chân thật của tất cả pháp.
TƯỚNG CẢNH GIỚI là chỉ cho thân, căn và cảnh giới ta đang có đây. Nó cũng chỉ cho ‘cảnh giới chứng’ còn trong vòng năng giác - sở giác. Hành thiền mà còn thấy có cảnh giới - dù cảnh giới ấy sáng rực không có bờ mé như hư không - thì cảnh giới ấy vẫn là cái bị thấy, chưa phải là cái THỂ như thật không này. Gọi là CỦA TÂM, vì tất cả tướng cảnh giới đều không ngoài tâm mà có. Không ngoài tâm nên tất cả đều không có chất thật, chỉ do vọng niệm, vọng giác mà thành. Như mắt bịnh mà thấy hoa đốm trên hư không. Hoa đốm vốn không thật có. Tướng cảnh giới kia cũng vậy. Do tâm bịnh mà tướng cảnh giới xuất hiện. Cảnh giới vốn không. Nên nói “XA LÌA tất cả …”.
Dùng KÍNH để dụ cho cái NHƯ THẬT KHÔNG thì biết cái như thật không ấy tính nó hay hiện vật. Đây nói “Không pháp có thể hiện” là do vật vốn không, không phải kính ấy không có tính hay hiện. Lìa năng giác - sở giác mới thấu được tánh thể này nên nói KHÔNG PHẢI NGHĨA GIÁC CHIẾU.
2. NHÂN HUÂN TẬP KÍNH, là như thật bất không. Tất cả cảnh giới thế gian đều từ trong đó mà hiện, chẳng ra chẳng vào, chẳng mất chẳng hoại, nhất tâm thường trụ, vì tất cả pháp tức là tánh chân thật. Lại, tất cả nhiễm pháp đều chẳng thể nhiễm, trí thể bất động, đầy đủ vô lậu huân chúng sanh.
Đây là nghĩa NHƯ THẬT BẤT KHÔNG ở phần tâm chân như. Gọi là NHÂN HUÂN TẬP bởi cái thể này là chỗ HUÂN TẬP của các chủng tử, chính là sở nhân y của tất cả pháp. Gọi là SỞ NHÂN Y vì nó là chỗ Y TỰA của tất cả pháp, cũng là NHÂN làm phát sanh vạn pháp. Nhiễm tịnh y nơi chánh nhân quả của mười phương pháp giới đều hiển hiện tại nhất tâm này, như gương sáng hiện tất cả sắc tượng, rời gương thì không có hình tượng, nên nói “TẤT CẢ CẢNH GIỚI thế gian đều từ trong đó mà hiện”.
CHẲNG RA CHẲNG VÀO … là muốn hiển bày vạn pháp chỉ là bóng dáng của tự tâm, không có tự tánh của riêng nó. Thấy ra thấy vào chỉ là do mê mà thấy. Ngài Hiền Thủ nói: “Phải đợi huân tập mới hiện các pháp, không phải không huân mà tự hiện được, nên nói CHẲNG RA. Không có tâm năng huân thì không có pháp, pháp không từ ngoài vào, nên nói CHẲNG VÀO. Tuy pháp không từ trong ra, không từ ngoài vào, song vì duyên khởi mà pháp hiển hiện, không phải là không, nên nói CHẲNG MẤT. Do duyên tụ khởi mà thành, không có xuất xứ, chẳng khác chân như, nên nói CHẲNG HOẠI. Như ảnh trong gương, dao chẳng thể chém. Vì đồng với gương nên chẳng thể hoại vậy”.
NHẤT TÂM THƯỜNG TRỤ vì nhất tâm chân như chính là thể của các tướng ấy. Như cảnh vật hiện trong gương và gương không phải một, nhưng bản chất của cảnh vật ấy lại chính là gương, tức vật và gương không khác. Vì cái KHÔNG KHÁC ấy mà nói “Pháp ấy tức là tánh chân thật”. Vì cái KHÔNG MỘT ấy mà nói “Tất cả nhiễm pháp đều chẳng thể nhiễm”. CHẲNG THỂ NHIỄM vì cảnh đến thì hiện cảnh, vật đến thì hiện vật, nó không có tánh lưu giữ khi vật và cảnh đã không. Chính cái tánh không lưu giữ ấy mà ta biết mặt gương dù chất đầy cảnh tượng, thể của gương vẫn trong. Chẳng nhiễm nên nói TRÍ THỂ BẤT ĐỘNG.
ĐẦY ĐỦ VÔ LẬU là chỉ cho pháp tánh chân như đầy đủ công đức thanh tịnh. HUÂN CHÚNG SANH, là tự thể ấy làm nhân huân tập bên trong, khiến người chán cái khổ sanh tử, thích cầu cái vui niết bàn.
3. PHÁP XUẤT LY KÍNH, là pháp bất không thoát phiền não ngại và trí ngại, lìa tướng hòa hợp, thuần thanh tịnh và sáng suốt.
XUẤT LY nghĩa là rời bỏ, thoát khỏi. Gọi là XUẤT LY KÍNH vì pháp bất không ấy thoát khỏi sự trói buộc của phiền não và sở tri. PHÁP là chỉ cho pháp tánh chân như. PHIỀN NÃO NGẠI và TRÍ NGẠI là chỉ cho phiền não chướng và sở tri chướng. Phá được 2 chướng này chính là phá được tướng hòa hợp giữa sanh diệt và không sanh diệt, nên nói LÌA TƯỚNG HÒA HỢP. Như gương, không còn bụi bặm thì mặt gương bóng sạch trong suốt hiển bày, nên nói “thuần thanh tịnh và sáng suốt”. THUẦN nghĩa là không có gì khác ngoài sự thanh tịnh và sáng suốt ấy. Đây là lúc thủy giác và bản giác hợp nhất.
4. DUYÊN HUÂN TẬP KÍNH, là y pháp xuất ly nên chiếu khắp tâm chúng sanh, khiến tu thiện căn, tùy niệm thị hiện.
Kính thứ hai trên nói về NHÂN huân tập. Đây, nói về DUYÊN huân tập. Gọi là duyên vì nó làm ngoại duyên giúp chúng sanh tu tập thiện căn. Phần này tương đương với phần dụng Bất tư nghì nghiệp tướng nói trên. Song đây nói ngay THỂ, kia nói ở TRÍ. Một bên là y nơi pháp xuất ly, tức ngay nhân tức quả mà nói. Một bên là y nơi bản giác tùy nhiễm hoàn tịnh, là quá trình từ nhân đến quả.
Cái dụng này chỉ có khi tâm đã qua được 2 chướng trong phần Xuất Ly Kính trên, nên nói Y PHÁP XUẤT LY. PHÁP XUẤT LY chính là giác thể mà Phật cùng chúng sanh đồng. Ngài Hám Sơn nói: “Trước, là chúng sanh vốn có Phật tánh làm nhân nội huân. Nay tu hành thì lìa chướng xuất triền, chứng được pháp thân, tức hay chiếu khắp tâm chúng sanh mà khởi đồng thể đại bi, hiện mọi thứ thân tướng để điều phục chúng sanh, làm duyên ngoại huân. Đại viên cảnh bình đẳng hiển hiện, cùng tâm chúng sanh chiếu sáng lẫn nhau. Chỉ vì chúng sanh mê mà chẳng biết. Trí giác tròn sáng nên hay chiếu khắp”.
TÙY NIỆM THỊ HIỆN là tùy tâm niệm của chúng sanh mà hiện hóa thân, báo thân làm lợi ích cho chúng sanh.
Các tin khác
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (01/04)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.1) (01/04)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.2) (01/04)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.3) (01/04)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.4) (01/04)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.5) (01/04)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.7) (01/04)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.8) (01/04)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.9) (01/04)
-
» ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN (P.10) (01/04)