Duyên khởi

PHÁ CHẤP - CĂN BẢN CỦA SỰ TU HÀNH (1)

Viết cho Báo Nguyệt San Giác Ngộ số 255 (06/2017 - PL 2561) và 256 (07/2017 - PL 2562)

25/08/2017


 

Có lẽ không đâu tồn tại nhiều hình thức, nhiều pháp môn, nhiều kinh luận (mà phần giáo lý có khi thấy đối nhau) như ở Phật giáo. Thật ra, chỉ yếu trong giáo của Phật không có hai, huống là quá nhiều. Không nghe Lâm Tế nói: “Té ra Phật pháp của Hoàng Bá không nhiều” ư?[1].

Xuất hiện nhiều thứ như thế là vì chúng sinh. Cũng vì có chúng sinh mà có giáo pháp. Vì căn khí chúng sinh không đồng nên kinh luận thành vô số, pháp môn thành vô lượng.


Như hiện nay ở thế gian, người không bệnh thì không thuốc để dùng. Chỉ do bệnh nhiều, lại không đồng một bệnh nên thuốc thành vô số. Ung thư, da liễu, đau đầu, đau khớp, đau bụng... Chỉ một loại đau đã có vô vàn các bệnh. Một món đau đầu, cũng không phải chỉ cảm mạo mới đau đầu, thiếu máu cũng đau đầu, lên tăng xông cũng đau đầu. Đau đầu vì cảm mạo, không thể dùng chung thuốc với đau đầu vì thiếu máu. Vô lượng loại bệnh nên có vô lượng loại thuốc để trị. Song nhiều thế nào, cũng chỉ với mục đích là giúp con người được khỏe mạnh.


Phật pháp cũng như vậy. Bệnh chúng sinh đa dạng nên giáo lý và pháp môn thành vô lượng, song chủ yếu đều là giúp người “hết khổ, được cái lạc rốt ráo”[2]. Kinh Pháp Hoa nói: “Từ lúc ta thành Phật đến nay, mọi thứ nhân duyên, mọi thứ thí dụ, diễn rộng ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dẫn đạo chúng sinh, khiến lìa chấp trước[3]. Có mọi thứ nhân duyên, mọi thứ thí dụ, vô số phương tiện, diễn rộng ngôn giáo là vì căn cơ chúng sinh không đồng, bệnh tật chúng sinh sai khác. Song nhiều bao nhiêu thì mục đích cũng là “khiến lìa chấp trước”. Bởi do “trước” mà Bồ-tát, A-la-hán và Bích Chi Phật trụ ở hóa thành, chẳng được bảo sở, vẫn chịu cái khổ vi tế của Biến dịch tử. Do chấp mà chúng sinh lìa “chỗ vô trụ” trụ trong lục đạo, khổ não triền miên với tấm thân phần đoạn, trí tuệ đức tướng Như Lai sẵn đó mà không dụng được.


“Hết khổ” thì có nhiều cấp độ, nhưng “được cái lạc rốt ráo” thì chỉ khi sống được với Phật tri kiến của mình mới có được cái lạc đó. Chính là một đại sự nhân duyên mà chư Phật xuất hiện ở đời. Kinh nói: “Chư Phật vì muốn chúng sinh khai Phật tri kiến để được thanh tịnh mà hiện ở đời. Vì muốn chỉ Phật tri kiến cho chúng sinh mà hiện ở đời. Vì muốn khiến chúng sinh ngộ Phật tri kiến mà hiện ở đời. Vì muốn khiến chúng sinh nhập Phật tri kiến mà hiện ở đời”. Nói theo kinh Đại bát Niết-bàn là giúp chúng sinh khai - thị - ngộ - nhập lại Phật tánh của mình, theo luận Đại thừa khởi tín là khai - thị - ngộ - nhập lại tâm Chân như. Song muốn ngộ nhập lại Phật tri kiến, tức trở về tâm vô trụ của mình, thì phải lìa tâm trụ trước, nên nói: “khiến lìa chấp trước”. Ngộ nhập Phật tri kiến và lìa chấp trước có mối liên quan mật thiết như vậy.


Muốn chúng sinh lìa chấp thì Phật Tổ phải có cách phá chấp. Phá chấp có nhiều cách. Dùng giáo lý giải thích giúp người thông hiểu, từ đó chịu dụng pháp để lìa chấp trước. Dùng các phương thức đánh, hét…, như chư vị Tổ sư ngày xưa, giúp người khai ngộ.     


Trên nền tảng đó mà giáo lý Ngũ thừa và các pháp môn được thành lập.


TÙY DUYÊN MÀ PHÁ CHẤP - TÙY CHẤP MÀ CÓ PHÁP

Chấp, là nắm giữ. Trước, là dính mắc. Do nắm giữ và dính mắc mà có khổ đau. Muốn không khổ đau thì chấp phải phá, trước phải không. Cho nên, nói đến phá chấp thì phải có người chấp (năng chấp) và pháp đang chấp (sở chấp), tức phải có năng chấp sở chấp, mới nói đến phá chấp. Không chấp thì không phá. Như Phật giáo dạy người tu phải giữ giới cùng nhẫn nhục nhưng Tuệ Trung thượng sĩ lại dạy Trần Nhân Tông: “Giữ giới cùng nhẫn nhục/ Chiêu tội chẳng chiêu phước/ Muốn biết không tội phước/ Không giữ giới nhẫn nhục”, rồi dặn: “Chớ nói cho người không ra gì biết[4]. Người không ra gì là người còn tham sân si, vẫn cần lấy giữ giới và nhẫn nhục làm pháp đối trị. Nhân Tông không còn phạm giới cũng không thiếu nhẫn nhục, tức không rơi vào chấp ấy, nên không dùng giữ giới và nhẫn nhục để phá. Không phạm cũng không thiếu mà trì giữ thì thành trụ trước, không thể trở lại bản tâm vô trụ. Cho nên, Tuệ Trung dùng “không giữ giới cùng nhẫn nhục” phá giữ giới cùng nhẫn nhục. Dụng pháp, tuy thấy nghịch với văn tự của kinh luận mà thật là đang tuân thủ tinh thần phá chấp mà kinh luận đã nói, giúp người lìa chấp. Chấp gì phá nấy. Phá đến khi nào hết chấp mới thôi.


Thành không phải mình học pháp này thì người kia cũng phải học pháp này. Mình không học pháp kia thì người kia cũng không được học pháp kia. Hiểu được mặt tùy duyên của pháp thì hiểu vì sao như vậy. Phải tùy duyên mà dụng pháp. Không đồng bệnh thì pháp dụng không đồng. Không đồng cơ thì pháp dụng sẽ khác. Vì thế, kinh có đến mấy ngàn bộ, luận và lục thì vô số, còn pháp môn có đến tám vạn bốn ngàn.


Cho nên…

1/ Không thể thống nhất hòa hợp Phật giáo theo cách đồng bộ hóa.  

Thống nhất hòa hợp trong Phật giáo không có nghĩa là biến tất cả các pháp môn thành một pháp môn. Không thể thực hiện điều đó cũng không nên thực hiện điều đó khi pháp là do ứng cơ mà hiện, mà cơ thì có quá nhiều sai khác. Ngài Bùi Hưu nói: “Như Lai ra đời tùy cơ lập giáo. Bồ-tát giáng sinh theo bệnh chỉ thuốc. Cho nên, giáo lý trong một đời, ngài mở bày ba môn có sâu cạn, chỉ một tâm chân tịnh mà diễn nói pháp tánh, tướng thì có khác…”. Cũng nói: “Thời xưa ở Ấn Độ chia tông phái thật nhiều, bởi bệnh có ngàn chứng thì thuốc cũng sinh nhiều phương, hợp cơ tùy bệnh, đâu có thể đồng nhất [5]. Vì thế, không nên có cái nhìn “Phật giáo không bao giờ có thể hòa hợp thống nhất khi nó có quá nhiều hình thức và Tông phái”. Thống nhất và hòa hợp trong Phật giáo không liên quan gì đến việc Phật giáo có nhiều hình thức hay tông phái. Chính việc đa dạng đó mới khiến Phật giáo làm tốt vai trò mà nó đang mang, là giúp người hết khổ được lạc. Việc đó chẳng khác trong một quốc gia có nhiều lãnh vực hay nhiều nghề nghiệp. Một đất nước giàu có vững mạnh, không có nghĩa là phải đồng bộ hóa mọi lãnh vực thành một lãnh vực hay mọi ngành nghề thành một ngành nghề. Vấn đề là lãnh vực nào làm cho tốt lãnh vực ấy, nghề nào làm cho tốt nghề ấy. Cái hoàn chỉnh trong từng lãnh vực đó mới góp phần làm nên một quốc gia giàu có và vững mạnh, không phải là đồng bộ hóa mọi thứ. Đồng bộ hóa sẽ khiến tất cả bị đình trệ.         


Hỏi
:
Kinh Pháp Hoa nói: “Đức Như Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sinh nói pháp, không có các thừa, hoặc hai hoặc ba…”, không phải là đề cao một Phật thừa, không phải là qui nhất Tam thừa về một Phật thừa sao?

Đáp: Nói vậy, không có nghĩa là muốn thống nhất Tam thừa thành Nhất thừa và phủ nhận Tam thừa. Nhất thừa đã sẵn đủ trong Tam thừa, không cần qui nhất. Chỉ là đang phá cái chấp dừng trụ Tam thừa để A-la-hán và Bích chi Phật nhận ra Nhất thừa, lìa hóa thành mà được bảo sở. Cũng chỉ là một cách phá chấp, như Trung luận phá nhân duyên, phá đến đi… Chư Phật không hề chỉ đề cao một Phật thừa. Kinh Pháp Hoa ghi: “Nếu chỉ khen Phật thừa/ Chúng sinh chìm trong khổ/ Không thể tin pháp đó/ Do phá pháp không tin/ Rớt trong ba đường dữ/ Ta thà không nói pháp/ Mau vào cõi Niết-bàn/ Liền nhớ Phật quá khứ/ Thực hành sức phương tiện/ Ta nay chứng được Đạo/ Cũng nên nói Tam thừa”. Thì biết chư Phật không hề chỉ ca tụng một Phật thừa mà phủ nhận Tam thừa. Chỉ là một cách phá chấp cho hàng căn cơ có căn khí Nhất thừa, lìa trụ Tam thừa. Còn ở mặt làm lợi ích chúng sinh, Nhất thừa bình đẳng với Tam thừa.


Cho nên…

Hòa hợp hay thống nhất trong Phật giáo, không phải là đồng bộ hóa mọi thứ mà chính là tông phái nào giữ vững tông chỉ của tông phái đó, người tông phái nào tu hành và xiển dương tốt tông phái đó. Tổ Khuê Phong nói: “Đều còn pháp kia, đều dẹp bệnh, tức đều diệu... Nếu mỗi bên quên được tình chấp của mình thì đồng qui về biển trí”. Tịnh độ thì tu tập và xiển dương đúng pháp Tịnh độ mà Phật Tổ đã đề ra. Tổ sư thiền thì tu hành và xiển dương đúng pháp mà Tổ sư đã chỉ dạy v.v... Thêm bớt là điều không thể tránh khỏi, bởi căn khí chúng sinh không đồng, nhưng dù thêm bớt thế nào cũng không đánh mất cái lý mà Phật Tổ đã nói. Khế cơ mà không được mất lý. Khế lý mà phải phù hợp với căn khí của chúng sinh. Tránh tình trạng đả kích lẫn nhau, người pháp môn này chê bai và hơn thua với người ở pháp môn khác, nói pháp tôi mới nhất, không dụng pháp tôi là sai đường v.v... Nói vậy là không thấu được mặt Duyên khởi của pháp, chỉ khiến tâm ngô ngã thêm lớn, không ích lợi cho việc tu hành. 


Biết pháp “do ứng cơ mà hiện” thì không có hơn thua. Pháp chỉ thành nhất khi nó được dùng đúng duyên. Niệm Phật trở thành nhất với người có căn khí niệm Phật. Thiền tông trở thành nhất với người có căn khí Thiền tông. Người nào từng huân tập niệm Phật nhiều trong quá khứ, sẽ dụng pháp niệm Phật giỏi hơn là người chưa từng niệm Phật. Người nào từng huân tập Thiền tông trong quá khứ, sẽ dễ nhập thiền hơn người chưa từng huân tập. Nói căn khí là vậy. Cho nên, không có pháp nào nhất cũng không có pháp nào tệ khi nó là pháp mà Phật Tổ đã đề ra. Pháp chỉ thành nhất khi nó được dùng đúng với căn cơ người dụng pháp, trở thành tệ khi nó được dùng không đúng duyên. Thành dù là pháp Nhất thừa, nếu được dùng không đúng duyên thì lợi ích đã không, có khi còn sinh tác hại. Thành kinh nói: “Pháp mầu như thế, chư Phật Như Lai đến khi đúng thời mới nói...” hoặc “Các đức Phật theo thời nghi mà nói pháp…[6]. Đúng thời hay theo thời nghi là muốn nói đến tinh thần tùy duyên trong việc dụng pháp. Phải biết dụng pháp đúng với căn cơ của chúng sinh. Dụng pháp như thế mới có hiệu quả. Được vậy thì Phật giáo, dù đủ các hình thức biệt lập vẫn là một khối thống nhất, vững mạnh và hòa hợp.

Ngài Bùi Hưu nói [7]: “Đệ tử các môn phái, người thông thì ít, người chấp thì nhiều, nên vài mươi năm nay Phật pháp suy hoại, bởi họ lấy chỗ vâng nhận [8] làm cửa ngõ, mỗi người tự mở. Dùng kinh luận làm giáo mác công kích lẫn nhau, tình theo đãy tên mà dời đổi, pháp theo nhân ngã làm thấp cao, phải quấy lăng xăng đâu thể trừ dẹp. Cứ lấy Phật, Bồ-tát, kinh điển các tông môn làm nền tảng tranh cải, càng thêm bệnh cho người đời sau, không lợi ích gì”. Nhân tố khiến Phật giáo mất tính hòa hợp thống nhất là đó. Pháp môn nào mà Phật, Tổ, Bồ-tát đã xiển dương đều do ứng cơ mà lập. Đã ứng cơ thì nhất định có kẻ hành được, tu được, xiển dương được, chỉ là ít hay nhiều, lâu hay mau. Không nên tranh kích hay có tâm chê bai lẫn nhau.

Hỏi: Sao vẫn thấy các luận sư như Thanh Biện, Hộ Pháp v.v… phá lẫn nhau?

Đáp: Trường hợp này không phải như trường hợp vì pháp môn mình, theo nhân ngã đấu phá công kích lẫn nhau như vừa nêu trên. Tổ Khuê Phong giải thích: “Đó là làm thành cho nhau. Không phải phá nhau. Chỉ vì kẻ hậu học sau này, căn cơ đần độn… chấp không chấp hữu, nên ngài Thanh Biện v.v… phá tướng định hữu, khiến thấu triệt đến chân không rốt ráo, mới có thể thành tựu duyên khởi diệu hữu. Còn Hộ Pháp v.v… phá chấp thiên không đoạn diệt, ý còn lại diệu hữu, diệu hữu còn mới thành tựu chơn không vô tánh kia. Về văn thì hai bên thấy phá nhau, về ý thì làm thành cho nhau[9]. Thành việc đối phá lẫn nhau của chư vị Tổ sư hiển khá nhiều trong kinh luận, như bài kệ của ngài Ngọa Luân và Lục Tổ v.v... Đó là đang hiển bày lý chân thật. Bởi tánh các pháp là không, nên cái đối ấy chính là mặt hiện tượng duyên khởi hiển thị cho bản thể không của vạn pháp. Nếu chỉ có một mặt hiện diện thì mặt ấy trở thành tánh các pháp, nhưng tánh các pháp là không, nên luôn có mặt nghịch lại. Thành nói hiển pháp đối nhau chính là làm thành cho nhau. Tổ Khuê Phong nói: “Nếu không đoạt nhau cùng tột thì không sao toàn thể nhiếp thâu. Cho nên có nghịch tột thì mới có thuận tột. Ngài Long Thọ, Vô Trước đến môn thuận tột nên làm thành cho nhau. Ngài Thanh Biện, Hộ Pháp y cứ môn nghịch tột, nên phá lẫn nhau. Trái thuận tự tại thành phá mà không phá, đối với các pháp thảy đều hòa hội”.

Còn một trường hợp, thấy như chư vị Tổ sư bài bác các pháp môn khác mà thật không phải là phá pháp môn, chỉ là phá cái chấp lấy phương tiện làm cứu kính, lấy hóa thành làm bảo sở v.v... Như tông Mặc Chiếu từng bị bác, không phải vì pháp môn đó không lợi ích cho người, mà vì người pháp môn ấy chấp phương tiện thành cứu cánh, lấy chỗ chứng còn năng sở cho là tánh các pháp, rồi dừng trụ luôn đó. Vì những chấp trước ấy mà bác. Nếu chư vị biết chỗ chứng còn năng sở đó chỉ mới là hóa thành, chưa phải bảo sở thì không bác.  

Nói chung, một pháp môn mà đường lối tu hành cũng như tông chỉ vừa khế lý lại vừa khế cơ nhưng Tổ sư lại bác, thì thường là bác các chấp trước không đúng, không phải là bác chính pháp môn ấy. Do không phân định rõ nên chúng ta tưởng chư vị bài bác pháp môn. Như trước đây có người nói HT Trúc Lâm bác tông Tịnh độ. Thật chỉ là phá những sai trái mà người thuộc tông Tịnh độ đang vướng, tưởng Tịnh độ tông là như thế, không phải bác Tịnh độ tông. Tịnh độ tông mà Phật Tổ lập bày không có cúng sao giải hạn, không có mở băng cassette niệm Phật thế người v.v... Vì những sai trái đó mà HT Trúc Lâm lên tiếng để người của Tịnh độ tông trở về đúng với Tịnh độ tông, không phải là phá bỏ Tịnh độ tông. Hai việc đó hoàn toàn khác nhau. Chỉ vì cái nhìn chúng ta không tới nên không thể phân định rõ ràng.

2/ Tránh tư tưởng mình không thể thì người cũng không thể.

Pháp do ứng cơ mà có, thuốc là tùy bệnh mà cho, nên tùy người mà có pháp tương ưng. Thành người này không thể tu thiền, không có nghĩa là người khác không thể tu thiền. Người này niệm Phật được, không có nghĩa là người kia cũng niệm Phật được. Người này niệm Phật được nhất tâm bất loạn, không có nghĩa là người kia cũng phải niệm được nhất tâm bất loạn v.v... Có thể có mà có thể không, không cố định. Vì nó lệ thuộc vào căn khí của người dụng pháp. Người niệm Phật vạn kiếp, kiếp này dễ được nhất tâm bất loạn hơn là người chỉ mới niệm Phật vài kiếp. Tùy vào căn khí của từng người mà kết quả dụng pháp có sai biệt. Có cái nhìn Duyên khởi thì tầm nhìn sẽ thoáng, không cố chấp vào bất cứ pháp nào.

Giáo lý Ngũ thừa đối trị các chấp trước sai lầm

Ngũ thừa, tùy tông phái mà sự phân chia có khác nhau, nhưng nhìn chung thì không có gì sai khác.

Theo Hoa Nghiêm tông, ngũ thừa là Nhân Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa và Nhất thừa.

Tông Thiên Thai thì tách Nhân Thiên thừa thành hai mà ghép Thanh văn và Duyên giác thừa vào một. Đó là Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn và Duyên giác thừa (Nhị thừa), Bồ-tát thừa và Nhất thừa. [10]

Đây đứng ở mặt phá chấp mà nói, Nhất thừa thì phá mà không phá, nên không nương vào cách phân chia của tông Hoa Nghiêm mà luận. Cũng cần phân biệt rõ cách phá chấp cho hàng Nhị thừa, nên cũng không nương vào cách phân chia của tông Thiên Thai mà giải thích. Chỉ là y vào cách phân chia bình thường mà luận, để dễ khai triển phần giáo lý phá chấp ở mỗi thừa. Đó là Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa (Đại thừa).
      

1/ Nhân thừa với ngũ giới

Nhân thừa là chỗ y cứ giúp chúng sinh có thân tướng và cảnh giới của loài người.

Đối với ai chưa có tâm xuất thế thì Nhân thiên thừa là nơi để nương tựa. Nhân tố được nhấn mạnh ở thừa này là phước nghiệp.

Do lưu giữ suy nghĩ sai lầm mà có hành động sai lầm. Hành động sai lầm nên có cái quả ở ba đường dữ. Nói cách khác, vì tham, sân, si lừng lẫy mà mở bày ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Để giúp chúng sinh phá bỏ việc này, Phật có phần giáo lý gọi là giáo lý Nhân thừa mà nền tảng là Tam qui và Ngũ giới. Mọi thứ được hiển bày thông qua lý Nhân quả, nhấn mạnh mọi kết quả mà chúng sinh đang có hiện nay đều bắt nguồn từ ba nghiệp của mình.   

Trong các bộ kinh thuộc hệ A-hàm, đức Phật nói đến nguyên nhân do đâu chúng sinh có thân tướng ở các đường, và dạy Phật tử tại gia những điều cơ bản trong việc làm cha mẹ, vợ chồng, con cái v.v... sao cho gia đình hạnh phúc, đất nước bình an. Không chỉ trong kiếp này mà cho cả những kiếp về sau.

Bố thí là pháp được nhắc đến khá nhiều ở thừa này. Vì nó giúp con người có đời sống sung túc, một yếu tố không thể thiếu trong cái gọi là hạnh phúc ở thế gian. Bố thí còn giúp phá bỏ tâm vị kỷ, nguyên nhân của mọi khổ đau.

Tùy mức độ giữ giới và ứng dụng lời Phật dạy vào đời sống của mình mà chúng sinh có thân tướng cùng các hoàn cảnh xấu tốt khác nhau. Tất cả đều tùy thuộc vào những gì mà chúng sinh ấy đã gây tạo.

Do mức độ trừ bỏ tham sân si không đồng nhất, nên đều là người mà thân tướng và hoàn cảnh sống không giống nhau, hoặc giống mặt này lại không giống mặt kia.            


2/ Thiên thừa với Thập thiện

Thiên thừa là chỗ y cứ giúp chúng sinh có thân tướng và cảnh giới của chư thiên. Thiên giới có ở cả ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc giới. Phước báu chư thiên cao hơn loài người. Như tuổi thọ dài, thân tướng có hương thơm, có thiên nhãn vô ngại nhìn khắp cõi đại thiên, có khả năng tùy ý biến hiện, tới lui nhậm lẹ vô ngại, dục cảnh thù thắng v.v...   

Muốn có thân tướng và cảnh giới chư thiên, chúng ta phải thực hành mười điều lành, được chỉ rõ trong kinh Thập thiện. Ở các cõi trời Sắc và Vô sắc thì phải có thêm thiền định. Như vậy, Thập thiện và thiền định là nghiệp nhân để có nghiệp quả tái sinh ở cõi trời.  


3/ Thanh văn thừa với Tứ đế

Thanh văn, là chỉ cho hàng đệ tử thời Phật còn tại thế. Do nghe âm thanh thuyết giáo của Phật mà chứng ngộ nên gọi là Thanh văn. Chư vị nương vào lý Tứ đế, quán bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã mà được giải thoát. Pháp hành là 37 phẩm trợ đạo. Quả chứng tối cùng của chư vị là A-la-hán.  

Tứ đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Tập là nhân của Khổ. Do tập mà có Khổ.

Đạo là nhân của Diệt. Nhờ Đạo mà Tập diệt. Tập diệt thì ngay đó là Niết-bàn, hết các khổ đau.

Tập, nói rộng là tích chứa, nói hẹp là thói quen. Có tụ hội tích chứa là có khổ. Thứ nào được tích chứa nhiều trong tạng thức, sẽ sinh ra một lực có khả năng lôi chúng sinh theo nó, khiến chúng sinh không thể tự tại. Đó cũng chính là lực khiến chúng sinh lưu chuyển trong Tam giới, Phật gọi là lực nghiệp.

Chúng sinh sinh tâm chấp trước là do có sự tích tụ này. Chính sự tích tụ này khiến chúng sinh dính mắc. Như người nghiện thuốc thì luôn phải dính mắc với thuốc. Nếu phá bỏ được việc nghiện thuốc thì có thuốc hay không thuốc, không có gì khác nhau, tự tại xuất hiện. Nghiện là một dạng của sự tích tụ. Do chúng ta huân tập việc hút thuốc nhiều, nên hút thuốc trở thành tập của mình và gọi đó là nghiện. Tất cả các việc khác đều như vậy.

Dòng vọng tưởng tích tụ nhiều nên nó có lực dẫn chúng sinh theo nó. Cho nên, dù ngay nơi vọng là chân, chúng sinh vẫn chỉ nhận vọng là mình, không thể nhận chân. Việc đó cho thấy Tập và chấp trước có mối liên hệ mật thiết với nhau, như lìa chấp trước có mối liên hệ mật thiết với việc ngộ nhập lại Phật tri kiến ở mỗi người.

Chỉ vì Tập có thô tế không đồng mà Diệt có bảo sở và hóa thành khác nhau. Có loại tập thuộc phiền não chướng. Có loại tập thuộc sở tri chướng. Trong kinh Thắng man phu nhân hội, không phải chỉ có Tứ thánh đế mà có đến Bát thánh đế, là Hữu tác thánh đế và Vô tác thánh đế. Tức Tứ đế không chỉ là nền tảng của pháp Thanh văn mà vẫn là nền tảng trong các kinh luận Đại thừa, chỉ là thô hay tế, hữu tác hay hay vô tác mà thôi. Thành chỉ nêu cao lý Tứ đế mà bác bỏ mọi tông phái khác là do không thấu được điều này, không thấy được mọi cách hành trì mà Phật Tổ và chư vị thiện tri thức đề ra đều không ra ngoài việc dùng Đạo trừ Tập. Tập diệt thì Khổ hết, ngay đó là Niết-bàn.

Vì Tập có thô tế mà Khổ thành có mức độ. Không chỉ có cái khổ của Phần đoạn tử mà còn có cái khổ của Biến dịch tử. Tập không chỉ có một dạng nên Đạo thành có muôn đường. Tông phái theo đó mà xuất hiện. Duyên khởi là vậy. Cái này có thì cái kia có. Cái này không thì cái kia không. Chỉ giữ một tông phái hay một lý thuyết nào đó mà bác bỏ mọi tông phái và lý thuyết còn lại, là do không trang bị được cho mình cái nhìn Duyên khởi mà Phật Tổ đã dạy.                  

Thanh Văn diệt Tập và Khổ mà có Niết-bàn hữu dư và vô dư. Chư Phật thấu được thực tướng của Khổ và Tập mà có Niết-bàn, đó là Niết-bàn vô trụ.


4/ Duyên giác thừa với Thập nhị duyên sinh

Duyên giác là chỉ cho các vị hữu học trong Tứ quả, trở lại nhân gian nhằm thời không có Phật, tự quán nhân duyên mà được Đạo. Cũng chỉ cho các vị do phước báu hạnh nguyện đời trước, đời này không cần phải theo người khác nghe pháp mà tự mình có khả năng phát sinh trí tuệ, nhờ nhân duyên bên ngoài như thấy hoa rơi hay lá rụng mà giác ngộ. Quả vị tối cùng của Duyên giác là Bích chi Phật, Độc giác Phật…

Phần giáo lý tương ưng với thừa này là Thập nhị duyên sinh: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh và lão tử. Cứ theo thứ lớp, chi trước là nhân duyên, chi sau là quả. Phần giáo lý này được nói nhiều trong các kinh thuộc hệ A-hàm, như kinh Thuyết Pháp, kinh Phân Biệt, kinh Con Đường v.v… được nói trong Tương ưng bộ II v.v…

Phần giải thích sau không dừng ở phần giáo Phật đã dạy cho hàng Trung thừa, mà còn được khai triển rộng theo cái nhìn của Thành duy thức, luận Đại thừa khởi tín v.v... để thấy phần giáo lý này vẫn ẩn đầy trong kinh luận Đại thừa.     

- Đứng ở góc độ nguồn cội mà nói thì Vô minh chính là cái bất giác đầu tiên, khiến cội nguồn chân thể biến động mà thành thức. Cái động đó gọi là Hành. Còn Thức đó, không phải là sáu thức mà chính là thức thứ tám [11], khi còn ô nhiễm thì gọi là A-lại-da hay A-đà-na, khi ra khỏi mọi triền phược thì gọi là Bạch tịnh thức.

Nói Thức ấy không phải sáu thức, vì nó là nhân (duyên) của Danh sắc, Danh sắc là nhân (duyên) của Lục nhập. Nếu cho Thức ấy là sáu thức thì phần Danh sắc và Lục nhập thành dư. Nếu cho Thức ấy là ý thức, còn thức trong Danh sắc là năm thức ngoài, cũng không được. Vì sắc trong Danh sắc chỉ luôn cho hình trạng Kiết-la-lam của bào thai, giai đoạn này chưa có năm căn nên chưa có năm thức [12], thành không thể nói thức trong Danh sắc là năm thức, còn Thức duyên Danh sắc là ý thức. Bởi đã có căn có thức thì đồng thời có trần, Lục nhập thành thừa. Thập nhị duyên sinh thành lủng củng. Vì thế biết Thức ấy là thức thứ tám, làm nền tảng cho thức ở phần Danh sắc sinh khởi. Cho nên, đề cao các kinh thuộc hệ A-hàm mà phủ nhận kinh luận Đại thừa mà Duy thức học là một phần trong đó, sẽ khiến cho tạng giáo của Như Lai thành méo mó. Tin kính Như Lai mà không hiểu Như Lai, sẽ trở thành bôi báng Như Lai. 

- Đứng ở góc độ hai đời mà nói thì Vô minh là chỉ cho sự bất giác [13], do bất giác mà sinh tạo tác (Hành). Các tạo tác này huân thành chủng tử nghiệp lực biến thức thứ tám thành chân Dị thục, là nhân để có thân căn và cảnh giới của một chúng hữu tình.

Danh sắc là chỉ cho thân căn của chúng hữu tình. Danh, chỉ cho thọ, tưởng, hành, thức. Sắc, chỉ luôn cho phần sắc thân khi vừa chớm tượng hình chưa đủ các căn. Y vào phần tượng hình này mà biết Thức duyên Danh sắc không phải là sáu thức [14].

Lục nhập, theo Tự điển Phật học Huệ Quang, chỉ cho sáu căn và sáu trần. Sáu căn, là nội lục nhập. Sáu trần, là ngoại lục nhập. Có nội thì đồng thời có ngoại. Trần cảnh có thể được nạp vào tạng thức thông qua sáu căn, nên gọi sáu căn là Lục nhập. Căn tiếp xúc với trần, phát sinh ra sự nhận biết về sáu trần, sự nhận biết đó sáu thức. Căn - thức - trần hòa hợp, gọi là Xúc.

Do Xúc mà có sự lãnh nạp tướng của cảnh thuận, nghịch, không thuận không nghịch (đối với tâm). Từ đó phát sinh ba loại cảm thọ là khổ, lạc, không khổ không lạc. Những gì mang tính bức não phiền muộn thì liệt vào khổ, mang tính vui sướng thì liệt vào lạc, không rơi vào hai trạng thái khổ lạc thì liệt vào không khổ, không lạc [15]. Từ cảm thọ khổ lạc mà có sự ưa thích hay ghét bỏ, gọi là Ái.

Ái là chỉ cho sự yêu thích. Nói đến ưa thích, cũng là nói đến mặt duyên khởi của nó, ghét bỏ. Do có yêu thích hay ghét bỏ mà sinh Thủ.

Thủ, là đắm trước [16]. Nói đến đắm trước thì không chỉ Ái mới đưa đến đắm trước, cả ghét cũng đưa đến đắm trước. Chính sự ghét bỏ hiện khởi ở tâm đã nói lên nghĩa trước (dính mắc), nên cả hai đều đưa đến Thủ.

Luận Trung Quán nói: “Nhân ái có bốn thủ/ Nhân thủ mà có hữu / Nếu thủ ấy không thủ/ thì giải thoát không hữu”. Bốn thủ là Kiến thủ, Dục thủ, Giới cấm thủ và Ngã ngữ thủ. Đó là nói theo tinh thần của hệ A-hàm [17].

Nói theo Duy thức học thì Thủ này được trình bày sâu xa hơn: “Do tập khí các nghiệp/ Cùng tập khí hai thủ/ Thân Dị thục trước hết/ Lại sinh Dị thục khác”. Thủ đây, chỉ cho thủ kiến và tướng, thủ danh và sắc, thủ tâm và tâm sở, thủ gốc và ngọn. Bốn thứ Thủ hiện hành đó huân thành công năng trên bản thức, gọi là tập khí hai thủ. Tập khí hai thủ, chỉ cho tập khí ngã chấp và tập  khí danh ngôn. Do chấp thủ ngã, ngã sở và chấp thủ danh ngôn mà huân thành chủng tử, nên gọi các thứ ấy là Thủ [18]. Chủng tử nghiệp nói đây, chỉ cho hữu. Cũng có thể hiểu đơn giản hơn: Tập khí hai thủ, là chủng tử hai chướng phiền não và sở tri. Còn tập khí các nghiệp, là chủng tử nghiệp hữu lậu và vô lậu [19]

Hữu, có khi được dùng để chỉ cho ba nghiệp, có khi được dùng chỉ cho Dục hữu, Sắc hữu và Vô sắc hữu. Thấy có khác, vì nói ở mặt nghiệp quả hay ở mặt nghiệp nhân. Hữu nói đây, chỉ cho ba nghiệp. Do nghiệp lực lớn mạnh mà có thân thọ sinh ở các đường (Sinh). Có Sinh thì có Tử, nói chi tiết là lão, bệnh, tử. 

Ứng với Tứ đế, tất cả 12 chi đều thuộc Khổ đế (vì là tánh thủ uẩn). 5 chi vô minh, hành, ái, thủ, hữu thuộc Tập đế (vì là tánh phiền não) [20].  

Thập nhị duyên sinh là một chuỗi nhân quả nối tiếp. Muốn không thọ thân sau, chỉ cần phá một trong các chi thuộc đời hiện tại. Nhưng muốn Thập nhị nhân duyên hoàn toàn biến mất thì phải như kinh nói: “Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt…”. Vô minh nói đây, chỉ cho phần Căn bản vô minh nói trong luận Đại thừa khởi tín, Vô minh trụ địa nói trong kinh Thắng Man phu nhân hội [21]. Chỉ khi phần Vô minh này bị soi thấu thì vòng lưu chuyển mới thật sự dứt. Vì lý do đó mà Niết-bàn của hàng Nhị thừa chỉ mới là Hóa thành chưa phải Bảo sở. Cái gọi là chấm dứt sinh tử, chỉ mới là chấm dứt Phần đoạn sinh tử của chúng sinh. Thánh nhân vẫn chịu cái khổ của Biến dịch tử, là cái quả của “Nghiệp vô lậu làm nhân, sở tri chướng làm duyên” [22].     

Trở lại việc không thọ hậu hữu, Vô minh và Hành là các chi thuộc quá khứ, không xét đến. Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu là các chi thuộc hiện tại, có thể quán xét để phá bỏ. Trong các chi ấy, chọn chi nào để phá? Luận Trung Quán nói: “Nếu thủ ấy không thủ/ thì giải thoát không hữu”. Thủ, chính là chỗ để chúng sinh chấm dứt sinh tử. Ngay cái Thủ ấy mà phá thì hữu sẽ không. Hữu không thì Sinh, Lão tử cũng không. Phá được thì được quả chứng của hàng Nhị thừa.

Thập nhị duyên sinh và Tứ đế là phần giáo lý quan trọng của Phật giáo, là nền tảng để các pháp như 37 phẩm trợ đạo, niệm Phật, tọa thiền, trì chú v.v… xuất hiện [23]. Chúng là lý giáo sở y của các pháp hành, không phải chính các pháp hành ấy, nên không gọi Thập nhị duyên sinh hay Tứ đế là pháp môn. Trong hai môn Chỉ & Quán trong thiền môn, chúng thuộc về Quán, nhưng là đối tượng dùng để quán, không phải chính pháp Quán đó. Đây phân tích rõ vậy, vì từng có người nhầm Tứ đế là một pháp môn, rồi bài bác các pháp môn khác, cho không phải Phật nói.

Nói đến pháp môn thì phải có pháp hành trong đó. Lý thì không hai, nhưng tùy cơ mà pháp hành có sai khác. Sự sai khác đó khiến phát sinh nhiều pháp môn khác nhau. Xuất hiện sự bài bác vì không nắm được ý này.     


5/ Bồ-tát thừa với lý Tánh không - duyên  khởi

Hành giả nào chịu phát tâm “Trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh”, gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát có hai loại là xuất gia và tại gia. Xuất gia như Văn-thù, Phổ-hiền…, tại gia như cư sĩ Duy-ma-cật, phu nhân Thắng Man... Nói chung, bất cứ ai có tâm muốn cầu Phật trí, muốn rộng độ chúng sinh cùng thành Phật, đều gọi là Bồ-tát, là Giác hữu tình. Nếu Thanh văn Duyên giác chuyển tâm cầu Phật đạo, cũng gọi là Bồ-tát. Tùy mức độ tịnh tâm mà Bồ-tát có 51 giai vị. Thập tín, Thập hạnh, Thập hồi hướng… Cũng tùy tông phái mà nghĩa của các giai vị có sai khác.

Phật trí chính là Tri kiến Phật nói trong kinh Pháp Hoa. Tri kiến Phật thì thấu được thực tướng của tất cả pháp. “Ai thấy được Duyên khởi, người ấy thấy được pháp. Ai thấy được pháp người ấy thấy Duyên khởi” [24]. Pháp ấy, chỉ cho bản thể của tất cả pháp. Ở nhân, gọi là Phật tánh, là tánh không hay tướng không nói trong Bát-nhã tâm kinh. Ở quả, chính là Niết-bàn Phật, là không và bất không nói trong luận Đại thừa khởi tín. Duyên khởi, là muốn nói đến mặt hiện tượng của tất cả pháp. Tánh tất cả pháp là không, tùy duyên mà có tướng sai biệt. Tướng ấy như huyễn vì tánh tất cả pháp là không, chỉ như ngủ rồi mộng mà thấy các thứ tướng. Tướng ấy không có chất thật, chỉ do giấc ngủ vô minh mà có.

Song vì sao hiện nay mọi thứ đều thấy như thật? Là do huân tập và chấp trước. Trong Lăng-già tâm ấn, ngài Hàm Thị nói: “Vọng chấp “ba duyên hợp mà sinh” vẫn mê yếu chỉ nội thức biến, in tuồng như có”. Thấy được mặt Duyên khởi của pháp mà còn chấp đó thì vẫn chưa thể thấu được cái gọi là nội thức biến, không thể thấy được mặt như huyễn của vạn pháp, huống là các chấp thô khác, như “Tập khí thấy sai kia khó trừ nên cảnh giới như huyễn chưa dễ gì thấy được[25]. Vì thế, kinh Duy-ma nói: “Bồ-tát trừ chấp chẳng trừ sự”. Cho thấy Bồ-tát tu hành cũng chẳng ra ngoài việc trừ chấp. Chỉ là không dừng lại ở việc trừ Tập hay Thủ như hàng Nhị thừa, mà phải soi thấu cội nguồn của cái gọi là Tập và Thủ v.v… Cho nên phần giáo lý sở y của Bồ-tát không chỉ dừng ở Tứ đế hay Thập nhị nhân duyên mà phải nói đến Tánh không - duyên khởi. Đó là nghĩa được nói trong các kinh liễu nghĩa, như Bát-nhã tâm kinh, Lăng-già tâm ấn, Lăng Nghiêm, Đại bát Niết-bàn, Thắng Man phu nhân…, và các bộ luận như Đại thừa khởi tín, Thành Duy thức

Với Nhị thừa, việc hóa độ chúng sinh không được hiển rõ như đối với Bồ-tát, cũng không quan trọng như đối với Bồ-tát. Vì hóa độ không chỉ là kết quả của lòng Bi khi Trí hiển phát, nó còn là giai đoạn giúp Bồ-tát thanh tịnh dần các tập khí mà chỉ khi đủ duyên chúng mới hiện khởi. Phần tập khí này, hàng Nhị thừa chưa thấy được. Chư vị chỉ mới thấy được mặt hiện hành của các chủng tử, chưa thấu được chính các chủng tử đó. Chủng tử là tên khác của tập khí.    

Y vào phần lý giáo đã nói trong kinh luận thì chỗ chứng của hàng Bồ-tát không phải là diệt có về không như Nhị thừa, mà là nhận ra bản chất của có và không. Tức nhận ra tính huyễn mộng của vạn pháp. Pháp môn tu hành của Bồ-tát y đó mà dựng lập. Tùy pháp hành và chỗ giác chứng mà thấy xuất hiện nhiều tông phái khác nhau. Chỉ là tùy cơ mà có pháp.          

Phần giáo lý Ngũ thừa này giúp phá dần các cái thấy sai lầm từ thô đến tế. Trong hai phần Kiến hoặc và Tư hoặc, giáo lý Ngũ thừa giúp hành giả phá trừ kiến hoặc. Sau nói về pháp môn hành trì, là phần phương tiện giúp phá trừ Tư hoặc.  

(Phần TIẾP THEO: Hình thành pháp hành thuộc các thừa)




 

[1] Thiền sư Trung Hoa. HT Thanh Từ biên soạn.

[2] Luận Đại thừa khởi tín. Phần Nhân Duyên thứ nhất - Tổ Mã Minh - Chân Hiền Tâm Việt dịch và giải thích.  

[3] Kinh Pháp Hoa – Phẩm Phương tiện thứ hai. Cưu-ma-la-thập dịch từ Phạn sang Hán. Đại tạng kinh số 262.  

[4] Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục. HT Thành Từ dịch giảng.

[5] Nguồn thiền – HT Thanh Từ giảng giải. (Trích lời tựa mà ngài Bùi Hưu viết cho cuốn “Thiền nguyên chư thuyên tập đô tự” của Tổ Khuê Phong).

[6] Kinh Pháp Hoa – phẩm Phương Tiện – HT Trí Tịnh dịch.

[7] Nguồn thiền – HT Thanh Từ giảng giải. (Trích lời tựa mà ngài Bùi Hưu viết cho cuốn “Thiền nguyên chư thuyên tập đô tự” của Tổ Khuê Phong).

[8] Chỉ mới lượm lặt được của người, chưa có phần tu chứng, không phải từ hong ngực lưu xuất.

[9] Nguồn thiền – HT Thanh Từ giảng giải. ( Lời của Tổ Khuê Phong viết trong Thiền nguyên chư thuyên tập đô tự).

[10] Tự điển Phật học Huệ Quang. HT Minh Cảnh chủ biên.  

[11] Trong kinh Tương Ưng Bộ II, chương I “Tương Ưng Nhân Duyên”, bài kinh “Phân biệt”, Phật nói Thức đó là sáu thức, còn phần Danh trong Danh sắc là Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý. Nói vậy, vì phần giáo thuyết cho căn cơ thời ấy, Phật chỉ mới đề cập đến sáu thức, giáo thuyết tám thức chưa được nói đến dù khi ấy đã nhắc đến A-đà-na, nên nói Thức ấy là sáu thức. Vì sao không phải sáu thức đã được lý giải ở phần kế tiếp, lấy ra từ luận Thành duy thức, do các Đại luận sư Duy thức luận giải.        

[12] Thành duy thức luận, trang 151 – HT Thiện Siêu dịch và chú – Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1996. 

[13] Kinh Tương ưng bộ II, phẩm Phân Biệt ghi: “Vô minh, là không biết rõ Tứ đế”. Kinh Đại bát Niết-bàn ghi: “Vô minh là không rõ Đệ nhất nghĩa đế”. Thấy có nhiều thứ sai khác, chỉ là tùy cách diễn giải, thô hay tế …

[14] Loài hóa sinh có sắc, trong bước đầu thọ sinh, tuy đủ năm căn mà chưa có tác dụng, lúc ấy chưa thể gọi là lục nhập, thành dù đủ năm căn mà vẫn nhiếp thuộc Danh sắc, không gọi lục nhập. Nói lục nhập sau, là khi các căn đã có tác dụng thu nạp trần cảnh. 

[15] Có thể nghiên cứu phần Thụ trong Tự Điền Phật Học Huệ Quang, để hiểu thêm về phần cảm thọ này. 

[16] Thành duy thức luận, trang 366 - HT Thiện Siêu dịch và chú - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1996.

[17] Kinh Tương ưng bộ II.

[18] Thành duy thức luận, trang 365 - HT Thiện Siêu dịch và chú - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1996.

[19] Thành duy thức luận, trang 382 - HT Thiện Siêu dịch và chú - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1996.

[20] Thành duy thức luận, trang 377 - HT Thiện Siêu dịch và chú - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1996.

[21] Kinh Thắng Man phu nhân hội – Bồ-đề-lưu-chí dịch từ Phạn sang Hán – Chân Hiền Tâm Việt dịch và giải thích.   

[22] Thành duy thức luận, trang 379 - HT Thiện Siêu dịch và chú - Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1996.

[23] Phần này sẽ hiển rõ khi khai triển phần pháp môn nói sau.

[24] Kinh Trung Bộ tập 1, trang 420, H.T Minh Châu dịch.

[25] Lời giải thích của ngài Hàm Thị trong Lăng-già tâm ấn – HT Thanh Từ dịch và giảng.