Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Q2
THẾ GIAN TỊNH NHÃN - Phẩm 1 (Phần 1)
Giải thích 4 từ “TÔI NGHE NHƯ THỊ”
12/07/2017Phẩm 1- Phần 1
(Xem tại đây)
TỰ PHẦN THUỘC CÕI NÀY
I. “TÔI NGHE NHƯ THỊ” LÀM CHỨNG TÍN
4 chữ “Tôi nghe như thị …”, nghĩa thì thông hết mà văn lại hạn cuộc. Vì văn chỉ có ở phần đầu mà nghĩa lại thông hết 8 hội. Từ “Một thời …” trở đi, văn thì thông mà nghĩa lại hạn cuộc. Vì các hội sau đều có “Lúc ấy …” nên văn thông. Đây chỉ hạn cuộc trong phần đầu nên nghĩa hạn cuộc.
. Luận Phật Địa phân làm 5 : 1/Tổng nêu đã nghe. 2/Thời gian kinh này xuất hiện. 3/Nêu giáo chủ. 4/Xứ mà kinh này xuất hiện. 5/Hạng căn khí có nhân duyên với kinh này.
. Luận Pháp Hoa v.v… có 6 thành tựu : 1/Tín. 2/Nghe. 3/Thời. 4/Chủ. 5/Xứ. 6/Chúng.
. Thám Huyền Ký đây có 4 môn : 1/Lý do an lập 6 nghĩa trên. 2/Biện về việc tự thân nghe hay do truyền lại mà nghe. 3/Định người truyền pháp. 4/Giải thích văn kinh.
1. LÝ DO AN LẬP 6 NGHĨA TRÊN : Lập 6 nghĩa này có 6 lý do.
1. Phật dạy an lập : Theo luận Đại Trí Độ, khi Phật sắp niết-bàn có nói với A-nan: “12 bộ kinh, ông phải lưu thông”. Bảo Ưu-bà-ly: “Tất cả giới luật, ông phải thọ trì”. Nói với A-na-luật: “Ông đã được thiên nhãn, phải thường thủ hộ xá lợi và khuyên người cúng dường”. Bảo đại chúng: “Ta hoặc ở thêm một kiếp, hoặc bớt đi một kiếp, rồi cũng phải diệt”. Nói rồi, nằm quay đầu về hướng bắc, nơi có hai cây sa-la, muốn nhập niết bàn.
A-nan, vì tình ái luyến thân thuộc chưa dứt, nên tâm chìm trong biển não. A-nê-lô-đậu nói với A-nan rằng: “Hôm nay Thế Tôn còn, nhưng mai thì không. Ông nên hỏi những việc cần thiết cho tương lai. Sao lại như người ngu, sầu muộn như vậy?”.
A-nan liền nói: “Tôi nay không biết thưa hỏi việc gì?”.
Lô-đậu dạy: “Yếu sự có bốn. Một là hỏi khi Như Lai còn tại thế, tự thân thuyết pháp, người người đều tin nhận. Vậy Như Lai nhập diệt rồi, đầu tất cả kinh nên để lời gì? Thứ hai, khi Như Lai còn tại thế, hàng Tì-kheo lấy Phật làm thầy. Nếu Như Lai nhập diệt rồi, lấy ai làm thầy? Thứ ba, Như Lai khi còn tại thế, hàng Tì-kheo nương nơi Như Lai. Nếu Như Lai diệt độ rồi phải nương vào đâu? Thứ tư, Như Lai khi còn tại thế, bọn Xa-nặc ác tánh còn có Như Lai trị. Như Lai diệt độ rồi, làm sao sống chung với họ?”.
A-nan theo lời dạy đó mà thưa thỉnh.
Thế Tôn trả lời: “Đầu các kinh cần để 6 câu “Tôi nghe như vầy…”. Thứ hai, các Tì-kheo đều lấy Ba-la-đề-mộc-xoa làm thầy. Thứ ba, đều nương theo pháp Tứ niệm xứ mà trụ. Thứ tư, với Tì-kheo ác tánh cứ dùng Phạm đàn mà trị. (Phạm đàn, đất này gọi là mặc-sấn). Nếu tâm chịu thay đổi nhận tội thì vì họ giảng nói kinh Ca-chiên-diên giúp phá tâm ngã mạn. (Kinh Ca-chiên-diên, đất này gọi là kinh Ly Hữu Vô).
Trong kinh Đại Bi, A-nan thỉnh Phật: “Làm sao kết tập pháp nhãn?”
Phật nói: “Sau khi ta diệt độ, các đại đức Tì-kheo có thể sẽ hỏi như vầy: ‘Thế Tôn giảng nói các kinh như Đại-a-ba-đà-na v.v… ở đâu?’… Ông nên đáp: ‘Tôi nghe như vầy, một thời Phật tại nước Ma-già-đà, dưới cây bồ-đề, vừa thành chánh giác, thuyết pháp … Giữa hai cây sa-la thuyết pháp’”. Cứ như thế có hơn hai mươi chỗ thuyết kinh, Phật tự dạy lại cho A-nan kết tập. Nên Phật dạy lập 6 nghĩa đó.
2. Vì đoạn nghi : Vì đoạn nghi mà lập 6 nghĩa này. Như Tam tạng Chân Đế nói: “Theo Vi Tế Luật, khi kết tập pháp tạng A-nan phải lên tòa cao. Thân ông đầy đủ tướng hảo như thân Phật, nhưng khi xuống tòa thân ông lại như cũ. Hội chúng thấy điềm này sinh ba điều nghi : Thứ nhất, nghi Phật đại sư từ bi, từ niết-bàn trở lại vì đại chúng thuyết pháp. Thứ hai, nghi Phật tiên từ phương khác đến. Thứ ba, nghi A-nan chuyển thân thành Phật. Nay vì trừ ba cái nghi đó mà lập 6 câu”. Cho nên A-nan tự xưng: “Pháp như vậy tôi được nghe từ Phật” là để biết không phải là Phật từ niết-bàn trở lại thuyết pháp, cũng không phải là Phật từ phương khác đến, cũng không phải là tự thân A-nan thành Phật. Chỉ “Do pháp lực khiến tôi giống Phật”.
3. Để đời vị lai sinh lòng tin : Luận Đại Trí Độ nói: “Đầu các kinh đều để thời, phương, chủ v.v… vì muốn người sinh tín tâm”.
4. Lìa lỗi thêm bớt : Luận Phật Địa nói: “Nên biết, nói cái ‘Tôi nghe như vậy’ này là ý muốn tránh cái lỗi thêm bớt khác với lời Phật”. Nghĩa là, pháp như vầy tôi nghe từ Phật, không phải do người khác truyền lại. Hiển thị người nghe có khả năng hiểu được những gì đã nghe, hoàn toàn lìa lỗi thêm bớt sai khác. Không phải như ngu phu không thể kham nổi những gì đã nghe, cũng không thể lìa lỗi thêm bớt sai khác. Lúc kết tập pháp, người truyền Phật giáo, y theo giáo của Như Lai, đầu tiên nói lời này là vì muốn chúng sinh cung kính tin nhận. Nói “Pháp như vậy tôi nghe từ Phật” thì văn nghĩa nhất định không thể thêm bớt. Cho nên, người nghe nên nghe nghiêm chỉnh, nghe rồi như lý tư duy, chuyên cần tu học.
5. Vì dừng các tranh luận : Nếu tự chế tác thì tranh luận sẽ khởi. Nghe Phật nói thì không như vậy. Đây là nói theo luận Đại Trí Độ.
6. Để phân biệt với ngoại đạo : Kinh luận ngoại đạo, có khi nói do vách đá lỡ sạt mà được, có khi nói từ chim xanh ngậm đến v.v… khó mà tin nhận. Đây hiển hết mọi ngóc ngách để rõ pháp không nói xằng bậy, khiến người tin nhận.
2. TỰ THÂN NGHE HAY DO NGHE LẠI : Tích truyền A-nan đích thân nghe Phật thuyết hay nghe lại từ người khác thì không đồng.
1. Tiểu thừa: Có hai thuyết.
1/ Tương truyền A-nan sinh vào đêm Phật thành đạo, 20 tuổi mới làm đệ tử Phật. Vì thế, 20 năm trở về sau A-nan mới đích thân nghe Phật nói, còn 20 năm trở về trước thì nghe truyền lại. Kinh Chuyển Pháp Luân nói: “Khi A-nan kết tập kinh tạng tự nói kệ rằng: “Khi Phật mới thuyết pháp / Lúc đó tôi không thấy / Chỉ nghe truyền lại rằng / Phật đến Ba-la-nại / Vì chúng năm Tì-kheo / Chuyển pháp luân Tứ đế”. Thì biết, 20 năm trở về trước, A-nan không đích thân nghe.
2/ Tương truyền đều là A-nan đích thân nghe : Luận Tát-bà-đa nói: “A-nan khi làm thị giả của Phật đã thỉnh nguyện rằng: ‘Nguyện Phật vì con mà thuyết lại những kinh điển đã thuyết trong 20 năm qua’”. Luận Tỳ-ni-mẫu cũng thuyết đồng với đây. Nên biết, tất cả đều là đích thân nghe.
2. Đại thừa : Đều cho là đích thân nghe. Có hai ý :
1/ Phật vì A-nan mà thuyết lại : Như kinh Thắng Man v.v… là Phật trở về bản xứ, rồi vì A-nan lặp lại. Như trên, trong kinh Đại Bi Phật cũng nói lại. Cho nên, là đích thân nghe.
2/ A-nan thường nghe : Kinh Niết-bàn nói: “A-nan là người đa văn. Dù có mặt hay không có mặt, vẫn có thể hiểu rõ nghĩa thường và vô thường”. Lại nói: “A-nan được tam-muội giác ý, nên chỗ Phật thuyết kinh dù gần hay xa vẫn thường nghe”.
3. ĐỊNH NGƯỜI TRUYỀN PHÁP :
Hỏi : Khi thuyết kinh này, hàng Nhị thừa như đui như điếc, lẽ nào “Tôi nghe …” lại do A-nan xưng?
Đáp : Có hai nghĩa.
1/ Nếu A-nan tự xưng : Cũng không lỗi. Vì sao? Vì theo kinh A-xà-thế Vương Sám Hối có 3 loại A-nan :
1. A-nan-đà, đây gọi là Khánh Hỉ, trì tạng pháp của Thanh văn. Đối với tạng pháp của hai thừa cao hơn thì tùy lực, tùy phần.
2. A-nan-đà Bạt-đà-la, đây gọi là Khánh Hỉ Hiền, trì tạng pháp Trung thừa. Đối với tạng pháp Đại thừa cao hơn thì tùy lực tùy phần. Đối với tạng pháp Tiểu thừa thấp hơn thì đã sẵn phần thọ trì.
3. A-nan-đà-sa-già-la, đây gọi là Khánh Hỉ Hải, Bồ-tát trì pháp tạng Đại thừa, đối với tạng pháp của hai thừa thấp hơn, đã sẵn phần thọ trì.
Theo văn kinh đó thì A-nan Khánh Hỉ Hải là đại Bồ-tát có thể trì đại pháp, cũng không trái lý. Theo Viên giáo thì người truyền pháp đều từ Hải ấn tam-muội của Phật Lô-xá-na hiện ra, chính là Phật.
2/ Không phải do A-nan truyền : Cũng không trái lý. Vì sao? Luận Đại Trí Độ nói: “Một là hiển thị giáo. Hai là bí mật giáo. Kinh Đại Phẩm là hiển thị giáo nên phó chúc cho A-nan. Kinh Pháp Hoa là bí mật giáo nên phó chúc cho Hỉ Vương v.v...”. Kinh Niết-bàn cũng nói: “Kinh nào A-nan chưa nghe thì Bồ tát Hoằng Quảng phải vì chúng mà lưu thông”. Y cứ đó thì Bồ-tát Hoằng Quảng sẽ xưng là “Tôi nghe như vầy …”. Theo Luận Đại Trí Độ thì Bồ-tát Văn- thù-sư-lợi xưng là “Tôi nghe …”. Vì luận đó nói Văn-thù-sư-lợi cùng với A-nan ở nơi thanh tịnh khác, kết tập Đại thừa tạng. Trong kinh Văn-thù-sư-lợi Bát Niết-bàn, 400 năm sau khi Phật nhập niết-bàn, Văn-thù-sư-lợi vẫn còn tại thế. Nên biết, ông là người truyền pháp này.
4. GIẢI THÍCH VĂN
Theo luận Đại Trí Độ thì NHƯ là thuận, THỊ là tin, cũng là ấn vậy, là ấn thuận tin nhận, nên nói NHƯ THỊ. Như thị nêu hết toàn bộ văn nghĩa, là chỉ ra pháp mình đã được nghe, nên nói NHƯ THỊ.
Tam tạng Trường Nhĩ nương vào Tam bảo, giải thích từ NHƯ THỊ như sau:
1. Với Phật mà nói thì: NHƯ những gì Phật nói, THỊ (đúng là) những gì ta nghe. NHƯ những gì ta nghe, THỊ (đúng là) những gì Phật nói.
2. Với Pháp mà nói thì: NHƯ những gì ta nghe, THỊ (đúng là) giáo xứng với lý. NHƯ giáo xứng với lý, THỊ (đúng là) những gì ta truyền lại.
3. Với Tăng mà nói thì: NHƯ những gì ta nghe. THỊ (đúng là) những gì Bồ tát đồng nghe. NHƯ những gì Bồ-tát đồng nghe. THỊ (đúng là) những gì ta truyền lại.
Phật Địa Luận nói: “Người truyền giáo của Phật nói: “Việc như thị (như vầy), xưa ta đã từng nghe”. Như thị, nói tổng quát, y nơi 4 nghĩa mà chuyển. 1/Y nơi thí dụ. 2/Y nơi lời dạy bảo (giáo hối). 3/Y nơi hỏi đáp. 4/Y nơi hứa khả”. Đã giải thích kỹ trong luận đó.
TÔI (NGÃ) là ngũ uẩn không thật. Luận về NGÃ, có bốn thứ :
1/ Chân ngã : Là các thứ thường, lạc, ngã, tịnh trong chân như. Chân như là tánh.
2/ Tự tại ngã : Là tám loại tự tại ngã v.v… Lấy trí làm tánh.
3/ Giả ngã : Là ngũ uẩn không thật. Chỉ là sở hiện của thức, dường như có chủ tể… Lấy đó làm tánh.
4/ Chấp Ngã : Lấy sở chấp phân biệt và câu sanh làm tánh.
Tâm duyên ngã cũng có bốn thứ :
1/ Kiến : Là hàng phàm phu v.v...
2/ Mạn : Là các học nhân.
3/ Tập : Là hàng vô học.
4/ Tùy thế lưu bố : Là chư Phật.
TÔI (NGÃ) nói đây, trong 4 loại ngã nói trên có cả 3 thứ đầu, y cứ theo giáo thì trong 4 thứ tâm duyên ngã chỉ có một, cũng có thể có cả 3 thứ sau.
Hỏi : Vì sao không nói “Vô ngã” mà nói “Ngã”?
Đáp : Vì muốn hiển đích thân nghe, vì tiện lời, vì thuận theo thế gian, vì hiển vô ngã … đều như luận Đại Trí Độ nói.
Hỏi : Người truyền pháp vì sao không xưng tên mà nói TÔI?
Đáp : Xưng tên thì bị cái lỗi là trùng tên dễ lạm dụng.
Hỏi : Nói TÔI, không phải cũng là chung sao?
Đáp : Đã xưng là TÔI thì nhất định thuộc mình, nên đã phân biệt với người khác.
Hỏi : Vì sao không nói tai nghe?
Đáp : Vì tổng thì thâu biệt.
Hỏi : Tai chỉ nghe âm thanh, đâu thể hiểu?
Đáp : Tai NGHE âm thanh, ý hiểu văn v.v… hòa hợp không hai, đều từ cái nghe cái nói của tự mình. Theo luận Tát-bà-đa thì căn nghe. Theo luận Thành Thật thì thức nghe. Theo luận Đại Trí Độ thì do hòa hợp mà nghe, là không và vô tác. Kinh Niết-bàn nói: “Có 4 nhân duyên hòa hợp nên nghe. Một là nhĩ căn chẳng hoại. Hai là âm thanh ở trong vùng có thể nghe. Ba là khoảng giữa không có chướng ngại. Bốn là muốn nghe. Vì thế mà được nghe”. Cho nên, cái nghe này là không nghe mà nghe. Nói đủ thì có 10 duyên :
1/Bản thức làm căn bản y.
2/Chủng tử nhĩ thức làm nhân duyên y.
3/Mạt-na làm nhiễm ô y.
4/Ý thức làm phân biệt y.
5/Tự loại nhĩ thức làm đẳng vô gián y.
6/Nhĩ căn không hoại làm đồng cảnh căn.
7/Tác ý muốn nghe.
8/Có cảnh làm sở duyên để duyên.
9/Khoảng giữa không chướng ngại.
10/Trong vùng có thể nghe. Cũng chung cho các pháp khác không chướng ngại v.v… Cho nên, cái nghe này không có tự tánh, không nghe mà nghe. Ứng vào giáo, cứ theo đó mà biện.
Các tin khác
-
» GIỚI THIỆU (31/03)
-
» THẾ GIAN TỊNH NHÃN - Phẩm 1 (Phần 1) (31/03)
-
» THẾ GIAN TỊNH NHÃN - Phẩm 1 (Phần 1) (31/03)
-
» THẾ GIAN TỊNH NHÃN - Phẩm 1 (Phần 1) (31/03)
-
» THẾ GIAN TỊNH NHÃN - Phẩm 1 (Phần 1) (31/03)
-
» THẾ GIAN TỊNH NHÃN - Phẩm 1 (Phần 1) (31/03)
-
» THẾ GIAN TỊNH NHÃN - Phẩm 1 (Phần1) (31/03)
-
» THẾ GIAN TỊNH NHÃN - Phẩm 1 (Phần 1) (31/03)
-
» THẾ GIAN TỊNH NHÃN - Phẩm 1 (Phần 1) (31/03)
-
» THẾ GIAN TỊNH NHÃN - Phẩm 1 (Phần 1&2) (31/03)